Nhận diện các giống Lan Việt Nam theo hệ thống thực vật học

AgriMark tổng hợp và chia sẻ cho các bạn yêu Lan nhận diện các giống Lan Việt Nam theo hệ thống thực vật học. Đây là một tài liệu hữu ích và khá đầy đủ, mời các bạn theo dõi

Cây hoa Lan (Orchid sp.) thuộc họ Phong lan (Orchidaceae); bộ lan(Orchidales); lớp một lá mầm Monocotyledoneac.

Họ phong lan phân bố rộng từ 68° vĩ Bắc đến 56° vĩ Nam, từ gần Bắc cực như Thụy Điển, Alaska, xuống tận các đảo cuối cùng ở cực Nam của Oxtralia. Tuy nhiên tập trung của họ lan chủ yếu ở các vĩ độ nhiệt đới, đặc biệt ở châu Mỹ và Đông Nam Á.

Đến nay loài người đã biết được trên 750 chi với 25.000 loài lan tự nhiên và 75.000 loài lan do kết quả chọn lọc và lai tạo.

Ở Việt Nam có hàng trăm loài lan, trong đó các loài lan sau được trồng rộng rãi trên khắp đất nước.

Phân loại theo đặc điềm hình thái thân cây

Căn cứ vào đặc điểm hình thái thân cây có thể chia lan làm hai nhóm;

Nhóm đơn thân: đây là nhóm chỉ tăng trưởng về chiều cao làm cho cây dài ra mãi.

Nhóm đơn thân chia thành 2 nhóm phụ:

– Nhóm phụ lá mọc đối (Sarcanthinae): nhóm này lá được xếp thành 2 hàng mọc đối nhau, lá trên một hàng xen kẽ với lá của hàng kia. Gồm các giống như: Vanda, Aerides, Phalaenopsis…

– Nhóm phụ lá dẹp thẳng hay tròn (Campylocentrinae): Papilionanthe, Luisia…

Nhóm đa thân: đây là nhóm gồm những cây tăng trưởng liên tục. Căn cứ vào cách ra hoa nhóm này chia thành 2 nhóm phụ:

– Nhóm ra hoa phía trên: Cymbidium, Dendrobium, Oncidium…

– Nhóm ra hoa ở đỉnh: Cattleya, Laelia, Epidendrum…

Ngoài ra còn có một số giống mang tính chất trung gian như: Centropetatum, Phackyphllum, Dichaea…

Phân loại theo môi trường sống của lan

Căn cứ vào môi trường sống của lan cũng có thể chia thành 3 loại:

– Địa lan: cây lan sống trong đất hoặc trong giá thể có đặc điểm gần như đất

– Phong lan: cây lan sống trong không khí.

– Bán địa lan: cây lan có thể sống trong môi trường không khí và trong đất

CÁC LOÀI HOA LAN TRỒNG PHỔ BIẾN

Phong lan lai tạo

Ngọc điểm Đai Châu – Rhynchostylis gigantea (Lindl.) Ridl.

Loại này có nhiều tên gọi khác nhau, miền Nam gọi là Ngọc Điểm, miền Trung gọi là Nghinh Xuân, còn miền Bắc là Đai Châu. Đây là loại lan rừng có nhiều ở Việt Nam, đặc biệt là các vùng nóng.

Ngọc điểm đai châu– Rhynchostylis gigantea (Lindl.) Ridl.

Cây có dáng đẹp, mọc khỏe, lá xanh, bóng, cụm hoa sặc sỡ, hương thơm ngào ngạt, nở vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân (đặc biệt vào dịp tết Nguyên Đán) nên rất được ưa chuộng.

Cây mọc phổ biến trong các rừng ẩm từ Bắc vào Nam, đặc biệt ở các tỉnh miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

Ngọc điểm đuôi cáo – Rhynchostylis retusa (L) BL

Ngọc điểm đuôi cáo – Rhynchostylis retusa (L) BL

Thân thẳng mập, lá màu xanh đậm, cụm hoa dài, bông thõng xuống, cuống hoa mập dài 20 – 40cm, hoa xếp dày đặc thành bông màu trắng có đốm tím, cánh môi màu tím. Hoa nở cuối tháng 4 đến hết tháng 5 sang đầu tháng 6.

Cây mọc rải rác trong các rừng ẩm từ Bắc vào Nam, từ vùng đồi núi thấp đến vùng núi cao nơi có khí hậu hơi lạnh.

Hoàng thảo thuỷ tiên – Dendrobium farmeri paxt

Hoàng thảo thuỷ tiên – Dendrobium farmeri paxt

Cây mọc thành bụi lớn màu vàng rơm. Lá xanh đậm, bóng, mềm. Cụm hoa thường sinh ra ở phía đỉnh thân, mang nhiều hoa màu trắng. Phần họng và cánh môi màu vàng đậm. Cây cho hoa đẹp, nở rộ vào tháng 2 – 3, đôi khi nở muộn sang đầu mùa hè. Cây mọc trong các rừng ẩm ướt từ Bắc vào Nam, đặc biệt ở các rừng thứ sinh đồng bằng sông Cửu Long.

Hồ Điệp – Phalaenopsis

Hồ Điệp – Phalaenopsis

Là loài lan nổi tiếng trên toàn thế giới vì dáng cây đẹp, hoa to, màu sắc sặc sỡ và độc đáo. Hoa nở vào cuối mùa đông sang mùa xuân năm sau.

Lan Hồ Điệp phân bố rộng rãi từ dãy Hymalaya qua Malaixia, Inđônêxia tới Đài Loan, Philippin, Oxtralia. Có khả năng thích ứng rộng. Các giống lan Hồ Điệp hiện nay đã được chọn lọc, lai tạo nên hoa ngày càng to và đẹp hơn.

Lan Hoàng Hậu – Cattleya Lindley

Lan Hoàng Hậu – Cattleya Lindley

Đây là một chi gồm hầu hết các loài phong lan đẹp nổi tiếng và được nuôi trồng rộng rãi. Chi lan Hoàng Hậu phân bố nguyên thủy ở một vùng rộng lớn thuộc Châu Mỹ nhiệt đới.

về hình dáng chi lan Hoàng Hậu có thể chia làm 2 nhóm:

– Nhóm 2 lá, hoa thường nhỏ, chùm mang nhiều hoa (Bifoliate)

– Nhóm 1 lá, với rất nhiều biến dạng, có củ giả nạc, cụm hoa có một đến một vài hoa lớn (Monofoliata). Đa số các loài lan đẹp đều thuộc nhóm này. Hoa có cấu tạo rất đặc biệt, hoa to, cánh hoa dăn deo xếp toả rộng, hoa có màu sắc, hình dáng độc đáo và nở hoa quanh năm.

Ở Việt Nam hiện đang nuôi trồng hàng trăm giống lai thuộc chi lan Hoàng Hậu như:

– Cattleya candora Everest

– Colmanara (Miltonia Ondontoglossum X Oncidium)

– Cattleytonia (Broughtonia X Catteleya), Moir, 1975

– Cyperocymbidium (Cyperoehis X Cymbidium), Hawakes, 1962.

Các giống lan thuộc chi lan Hoàng Hậu có khả năng chịu nhiệt độ cao do đó thích hợp với điều kiện Việt Nam và chúng ngày càng được ưa chuộng.

Các loài phong lan rừng

Theo dạng thân và cách sống của cây, các loài phong lan rừng có thể được xếp thành một số nhóm dưới đây:

Phong lan đơn thân

Lan đơn thân là những loài Lan sống bám trên thân cây hay vách đá, thân phát triển vươn dài theo một trục. Hầu hết đây là những loài lan có xuất xứ từ vùng núi thấp hay núi cao trung bình, dễ trồng và dễ ra hoa ở miền Bắc. Theo hình thái của cây và yêu cầu về nuôi trồng có thể chia nhóm lan này thành 2 dạng.

A. Lan có thân vươn dài và rễ khí:

Thân Lan vươn dài, cây lớn. Rễ lớn mọc ra từ nhiều điểm dọc theo thân. Rễ cây có thê bám vào các vật cứng ở gân hay buông dài trong không khí. Cách trồng những loài Lan này thường \à buộc vào gồ treo lên hay buộc thân cây trong sân vườn. Cũng có thể trồng chậu nhưng chậu chi có ý nghĩa làm giá đỡ cho cây, còn rễ cần được tự do phát triển. Đây là nhóm Lan rừng dễ trồng nhất, gồm một số chi Lan đáng chú ý

Chi Giáng hương (Aerides)

Chi Giáng hương ở Việt Nam có 8 loài, là những loài Phong lan đơn thân được ưa chuộng bởi có hoa chùm dại, màu sắc tươi và hương thơm. Do có kích thước lớn các loài Giáng hương thường dùng để trang trí sân vườn, nơi có không gian rộng, các loài Giáng hương có xuất xứ từ vùng núi thấp hay núi cao trung bình, hầu hết dễ trồng và ra hoa tại Hà Nội. Phần lớn các loài cần được che bóng một phần, trồng ở điều kiện 40-70% ánh sáng trực tiếp. Mùa hè cần tưới nhiều nước nhưng tránh để đọng nước ở rễ. Mùa đông giữ ẩm vừa phải. Bón phân hàng tháng trong mùa sinh trưởng. Trồng chủ yếu là do bám gỗ hay thân cây để bộ rễ phát triển tự do, hạn chế chuyển chậu, thay gỗ vì làm tổn thương nhiều đến rễ.

Chi Giáng hương được dùng phổ biến để lai với các chi lan Vanda, lan Nhện, Hồ điệp, Phượng vĩ.

Giáng hương thơm (Aerides odorata)

Giáng hương thơm – Aerides odorata

Giáng hương thơm còn được gọi là Quế lan hương. Cây có thân dài đến lm, mập. Lá hình dải, dài 15-30cm. Cụm hoa dài bằng lá, rủ. Hoa xếp dày, khá lớn. Cánh môi cuộn hình ống rộng, có cựa cong ra phía trước làm cho hoa có hình dáng con ong. Hoa thơm, màu từ trắng tinh đến phớt hồng. Loài lan này gặp cả ở vùng núi đá và núi đất thấp.

Cây lớn, nhiều nhánh ở gốc tạo thành bụi, khi ra hoa làm cây trang trí sân vườn rất hiệu quả. Hoa nở vào địp 2/9, tương đối bền. Loài dễ trồng, cần để chỗ râm mát, khoảng 40-70% ánh sáng trực tiếp. Tưới nhiều và bón phân hàng tháng vào đầu mùa sinh trưởng từ tháng 4 đến tháng 8. Sau khi cây ra hoa, giữ độ ẩm vừa phải, không để cây bị khô, không bón phân cho tới mùa xuân năm sau.

Ngoài giống thường gặp có hoa màu trắng vàng, ở Việt Nam còn có 2 giống:

– Giáng hương thơm hoa trắng (Ae.Odorarata var alba) có hoa màu trắng tinh, cụm hoa thẳng đến hơi rủ, nở tháng 8-9. Giống ít gặp, có ở miền Trung.

– Giáng hương hồng nhạn (Ae.Odorarata var micholitzii) có hoa màu hồng tím, nở vào tháng 4-5, cụm hoa thẳng, không thơm, thân ngắn, lá xếp dầy. Cây đặc hữu Tây Nguyên, dễ trồng ở miền Bắc.

Giáng hương Quế nâu (Aerdes houlletiam)

Giáng hương Quế nâu – Aerdes houlletiam

Còn gọi là Tam bảo sắc. Cây có thân dài, mập. Lá hình dải, dài, mảnh hơn Giáng hương thơm. Cụm hoa rủ, hoa lớn, xếp dày. Hoa màu vàng cam hay nâu nhạt với phần đầu cánh màu tím. Cánh môi chia làm 3 thuỳ, thùy giữa rộng, mép có răng mịn nhăn nheo, giữa thuỳ có vạch đậm. Màu sắc hoa có thể thay đổi tùy từng cây từ trắng tím vàng tím. Loài này gặp ở các tỉnh miền Trung và Nam bộ, là một trong những loài lan đặc trưng của dãy Trường Sơn. Cây mọc chủ yếu trên các vùng núi đất có độ cao thấp.

Cây lớn có nhiều màu sắc, thơm thích hợp cho trồng treo trang trí ngoại thất rất có hiệu quả. Hoa nở vào tháng 4-5, tương đối bền. Loài dễ trồng, ưa bóng râm, chịu 40 -70% ánh sáng trực tiếp. Giống như Giáng hương thơm, loài này cần tưới nhiều nhưng tránh đọng nước vào mùa sinh trưởng và giữ ẩm vừa phải vào mùa đông. Phân bón chủ yếu vào đầu mùa sinh trưởng, không bón trong mùa lạnh.

Loài tương tự hay gặp là Giáng hương Quế (Ae.falcata), phân biệt là hoa có màu vàng nhạt hơn và mùi thơm không bằng Giáng hương Quế nâu.

Giáng hương nhiều hoa (Aerides multiflora) (còn gọi là Thạch hoa)

Giáng hương nhiều hoa – Aerides multiflora

Người chơi lan thường gọi là lan Đuôi cáo. Cây có thân ngắn, mập, lá hình dải, dài. Cụm hoa rủ, hoa nhỏ, xếp dài thành bông, màu trắng có đốm tím ở gốc và đỉnh màu tím. Cánh môi không tạo cựa, chia làm 3 thùy, thùy giữa hình tam giác, màu tím đậm. Màu sắc hoa có thể thay đổi tùy từng cây. Cây mọc rải rác từ Bắc vào Nam chủ yếu trên các vùng đất độ cao thấp.

Loài lan này có thân cây gọn gàng, hoa có màu sắc tươi tắn, thích hợp cho trồng chậu treo trang trí bên cửa sồ, ban công lớn. Hoa nở tháng 5-6, tương đối bền. Cây dễ trồng, chăm sóc tương tự như Giáng hương thơm và Giáng hương quế nâu. Tuy nhiên loài này khó ra hoa hơn và nhạy cảm hơn với nước đọng. Chú ý để cây chỗ sáng vào mùa đông,

Loài tương tự có thế gặp là Giáng hương Hồng (Ae.rosea) có người gọi là Đuôi cáo có lá dày và cuộn, xếp dầy trên thân hơn, hoa đậm màu hơn. Loài này gặp rải rác ở Lai Châu hoặc một số tỉnh phía Nam.

Chi lan Vanda

Chi Vanda ở Việt Nam có 7 loài đã được ghi nhận. Vanda được ưa chuộng bởi hoa lớn, màu đậm, bền và có hương thơm, Kích thước cây tương đối lớn, thân dài, thích hợp cho trang trí ngoại thất.

Là những loài xuất xứ từ vùng thấp hay núi cao trung bình nên hầu hết các loài Vanda đều dễ trồng và ra hoa tại Hà Nội. Các loài Vanda rừng được nuôi trồng ở Việt Nam là những loài có lá dẹt, cần tránh nắng trực tiếp nhưng ưa sáng hơn chi Giáng Hương. Mùa hè cây cần nhiều nước nhưng tránh đọng nước trên rễ. Cũng như các loài lan đơn thân khác nên hạn chế việc vận chuyển chậu làm động rễ cây. Khi cây phát triển quá lớn, có thể tách cây sang chậu mới. Ngâm cây vào nước cho mềm rễ rồi mới tách để tránh làm tổn thương rễ. Trồng Vanda cần có chỗ dựa cho thân và có chỗ cho rễ phát triển. Rễ Vanda phát triển mạnh và nhiều thì cây mới ra hoa tốt. Có thể trồng cây vào chậu treo không có chất trồng. Trường hợp này, chậu chỉ làm giá đỡ, còn rễ phát triển buông ngoài không khí.

Vanda là chi lan hay dùng để lai với các chi lan Hoàng Yến, Nhện, Phượng vĩ, Giáng hương hay Hồ Điệp. Nhiều loài Vanda có hoa đẹp, phổ biến trên thị trường không phải là Lan rừng.

Vanda Chanh (Vanda fuscoviridis)

Vanda Chanh – Vanda fuscoviridis

Cây có thân mập, nhiều rễ lớn. Lá hình dải, dài. Cụm hoa dài 10-15cm. Hoa lớn, xếp thưa, màu vàng nâu, mép viền vàng chanh. Cánh môi màu vàng chanh, gốc màu trắng. Thường gặp loài lan này ở một số tỉnh vùng Đông Bắc như Cao Bằng trên núi đá vôi ở độ cao thấp.

Cây có hoa lớn, bền, thơm, thích hợp cho trồng treo, trang trí ngoại thất. Hoa nở tháng 5-6. Loài dễ trồng, chịu ánh sáng trung bình, 40-70% ánh sáng trực tiếp.

Loài tương tự hay gặp là Vanda Bắc (V. concolor) có hoa màu nâu, đậm ở mép, nhạt dần vào trong, cánh môi màu nâu nhạt, gốc có sọc thường gặp ở miền Bắc.

Chi Ngọc điểm (Rhynchostylis)

Chi Ngọc điểm ở Việt Nam có 3 loài. Các loài của chi này nổi bật với hoa chùm gồm nhiều hoa nhỏ xếp dày thành bông, màu sắc tươi tắn với mùi thơm nhẹ. Ngọc điểm tuy có kích thước lớn nhưng thân không vươn quá dài nên có thể vừa thích hợp cho trang trí sân vườn thích hợp cho trồng treo ở cửa sổ, ban công có diện tích hẹp hơn.

Là những loài có xuất xứ từ vùng thấp hay núi cao trung bình nên các loài Ngọc điểm dễ trồng và ra hoa tại Hà Nội. Rễ các loài Ngọc điểm lớn, phần nhiều bám vào gỗ hay chất trồng, ít khi buông rủ như rễ Vanda hay Giáng hương. Do đó trồng những loài này cần có chỗ bám cho rễ phát triển, thường cây Lan được buộc sát vào gỗ hay thân cây cho rễ bò dọc theo gỗ. Hạn chế việc thay chậu, thay chỗ trồng vì sẽ làm tổn thương nhiều đến rễ đã bám vào chất trồng.

Các loài Ngọc điểm ưa sáng nhưng cần tránh nắng trực tiếp. Mùa hè cần tưới nước.

Ngọc điểm Đai châu (Rhynchostylis gigantea)

Ngọc điểm Đai châu – Rhynchostylis gigantea

Còn gọi là Ngọc điểm Nghinh xuân (Tai trâu). Cây có thân mập, không cao, có nhiều rễ lớn. Lá dày màu xanh nổi cách vạch trắng dọc. Cụm hoa bông lớn, cong xuống, dài 20-30cm. Hoa xếp dày. Cánh dày màu trắng có nhiều đốm tím. Cánh môi trắng có vạch tím, đỉnh chia 3 thùy nhỏ. Đai châu có phân bố rộng ở nhiều vùng như Bắc Trung bộ, Tây Nguyên. Cây thường gặp trên núi đất ở độ cao thấp đến cao trung bình.

Đai châu là loài cây lan phổ biến được ưa chuộng do có hoa chùm đẹp, nở vào đầu xuân tháng 1-2 đúng dịp Tết, dễ trồng, ưa sáng 50-70% ánh sáng. Mùa sinh trưởng (tháng 3-8) có thể bón phân hàng tuần bằng phân cân bằng (N=P=K0 cho lá phát triển. Bón bằng phân giàu lân vào trước thời kỳ cây ra hoa (tháng 9-11). Hạn chế bón khi thời tiết quá lạnh. Một số người dùng phân hữu cơ như nước ốc, nước giải pha loãng để bón cho Đai châu, tuy có tác dụng nhưng không nên sử dụng những loại phân này vì dễ gây sâu bệnh, thối lá và làm bẩn môi trường trồng Lan. Màu sắc hoa Đai châu thay đổi từ màu trắng, trắng đỏ cho đến màu đỏ tía. Một số giống Đai châu hoa đỏ là giống nhập từ Thái Lan và giống trắng đỏ là giống lai.

Ngọc điếm Hải âu (Rhynchostylis coelestis)

Ngọc điếm Hải âu – Rhynchostylis coelestis

Loài này có thân ngắn và lá nhỏ hơn. Cụm hoa đứng, dài 10 -15cm. Hoa lớn, xếp dày, màu trắng với đốm lớn màu lam ở đỉnh. Cánh môi màu lam, gốc trắng, hoa thơm, Cây mọc trên núi đất ở độ cao trung bình ở các tỉnh miền Nam và Tây Nguyên.

Do có cụm hoa đứng, màu lam tươi rất đẹp nên Hải âu là loài có giá trị trang trí cao. Cây ra hoa tháng 5-6, hoa nở trong khoảng 1 tuần. Loài tương đối dễ trồng, ưa sáng, ưa chỗ thoáng đãng.

Loài đáng chú ý khác: Ngọc điểm Đuôi sóc (Rh.retusa) có hoa màu trắng đốm tím rất đẹp. Gặp rải rác ở miền Bắc và Bắc Trung bộ, tương đối khó trồng và khó ra hoa nên không phổ biến.

Chi Cẩm báo (Hygrochlus)

Chi này chỉ có một loài duy nhất là cẩm báo (Hygrochilus parishii).

Cẩm báo – Hygrochilus parishii

Cây có thân dày ngắn, lá hình trái xoan. Cụm hoa dài hơn lá, ít hoa, hoa lớn. Cuống chung mập thẳng hay gẫy khúc. Cánh hoa màu vàng xanh có đốm, vệt đỏ nâu. Cánh môi nhỏ, thùy bên. Gặp chủ yếu ở các tỉnh phía Nam và dãy Hoàng Liên Sơn ở độ cao thấp đến trung bình.

Cây có hoa lớn, nở tháng 4-5 rất bền. Cây dễ trồng, ưa sáng. Cách trồng và chăm sóc tương tự các loài Ngọc điểm.

Chủng Cẩm báo nhung (H.parishii var mariottiana) có cánh hoa đồng màu, màu tím hồng gặp ở Tây Nguyên.

Chi Phượng vĩ (Renanthera)

Chi lan Phượng vĩ ở Việt Nam có 5 loài, là các loài Phượng lan đơn thân có thân vươn dài, lá ngắn, dày, xếp thưa trên thân. Hoa chùm lớn, màu đỏ và vàng, rực rỡ.

Các loài Phượng vĩ xuất xứ từ vùng núi thấp hay cao trung bình, hầu hết là các loài dễ trồng và ra hoa tại Hà Nội. Cây trồng trong chậu treo hay bám gỗ cho phát triển. Các loài Phượng vĩ rất ưa sáng, có thể trồng không cần che nắng ở những chỗ không quá nắng. Do trồng chỗ sáng nên cây cần tưới nước nhiều vào mùa hè. Mùa đông giữ ẩm vừa phải. Bón phân cho cây hàng tháng trong mùa sinh trưởng. Đầu mùa tháng 6-8 bón các loại phân giàu đạm (30:10:10), bón phân cân bằng vào tháng 9-11. Trong mùa lạnh không nên bón phân hoặc bón các loại phân giàu lân và kali (6:30:3). Hạn chế chuyển chậu hay chỗ trồng vì rễ cây bám vào chất trồng tương tự như rễ Ngọc điểm. Những cây Lan sau khi chuyển chậu rất lâu ra rễ và hồi phục.

Phượng vĩ Bắc (Renanthera coccinea)

Phượng vĩ Bắc – Renanthera coccinea

Còn gọi là Huyết nhung. Cây có thân leo cao tới 10m. Rễ nhiều, lớn, giúp cây leo bám cao. Lá dầy, ngắn, hẹp. Cụm hoa lớn dài tới 60cm, có 4-5 nhánh, mỗi nhánh có 10-15 bông, trải rộng gần giống hình tam giác phẳng. Hoa lớn, màu đỏ. Cánh môi màu đỏ đậm, thùy bên màu vàng có vạch dọc. Loài lan này rất phổ biến, có ở hầu hết các vùng trong cả nước. Cây mọc ở độ cao thấp và trung bình.

Cây cao khoảng l,7m mới bắt đầu ra hoa, Những cây bán ở thị trường thường là những đoạn thân ngắn được cắt từ cây to khi đã có hoa. Hoa nở tháng 4-5, rất bền, kéo dài 4-5 tuần. Loài lan này dễ trồng, ít sâu bệnh, hoa có màu đẹp nhưng không thơm, kích thước cây quá dài nên giá trị làm cành không cao, thường dùng cho leo bám các cây trong sân vườn. Hội sinh vật cảnh Buôn Mê Thuật đã lai tạo loài Phượng vĩ với lan Vanda Dạ hương cho cây lai có hoa màu sắc đẹp, lại thơm.

Hai loài Phuợng vĩ Trung (R.annamensis) và Phượng vĩ Nam (R.imschootiana) phân biệt với Phượng vĩ Bắc ở cảnh hoa có màu vàng lẫn đỏ, thân không leo dài.

Chi Hoàng yến (Ascocentrum)

Chi lan Hoàng Yến ở Việt Nam có 3 loài, có thân ngắn, lá dày. Hoa chùm đứng, nhiều hoa xếp sát, nổi bật với màu sắc rất tươi tắn.

Có xuất xứ từ vùng núi thấp hay cao trung bình nên hầu hết các loài Hoàng yến dễ trồng và ra hoa tại Hà Nội. Cây có kích thước nhỏ, chủ yếu thích hợp cho trang trí bên cửa sổ, ban công.

Lan Hoàng yến thường dùng lai với các chi lan Vanda, Hồ Điệp, Giáng hương.

Hoàng yến cam (Ascocentrum garayi = A. miniatum)

Hoàng yến cam – Ascocentrum garayi = A. miniatum

Hoàng yến cam còn được gọi là Hỏa hoàng. Cây có thân ngắn, mập, lá dày, cứng. Cụm hoa đứng mọc từ nách lá ở đỉnh, dài trên 10cm. Hoa nhỏ, xếp dài, màu vàng cam bóng, tươi. Hoả hoàng gặp chủ yếu ở phía Nam như miền Trung và Nam bộ, Tây Nguyên trên núi đất ở độ cao thấp,

Hoa Hỏa hoàng nở tháng 4-5, bền trong vài tuần. Là loài dễ trồng, hoa sắc màu rực rỡ, kích thước cây gọn gàng nên Hỏa hoàng có thể coi là lan rừng có giá trị cao. Rễ Hỏa hoàng nhỏ, nhiều, vừa bám gỗ vừa buông ra ngoài không khí. Cây trồng trong chậu treo nhỏ hay cho bám gỗ. Hỏa hoàng ưa sáng, khoảng 50-70% ánh sáng trực tiếp. Cây ưa ẩm, cần tưới nhiều nước, nhất là trong mùa hè. Sau khi cây ra hoa, có thể bón phân hàng tháng.

B. Lan có thân ngắn, rễ chùm

Đây là những loài lan đơn thân nhưng thân rất ngắn, rễ mọc thành chùm ở gốc cây. Do vậy những loài lan này cần trồng trong chậu để giá thể che kín rễ hoặc nếu khi trồng bám gỗ cần chú ý giữ ẩm cho rễ bằng cách buộc thêm xơ dừa, rêu quanh rễ. Hầu hết các loài lan này đều ưa bóng mát nên đây là những loài lan đáng chú ý, thích hợp cho môi trường nội thất hay không gian hẹp.

Tóc tiên Bắc (Holcoglossum lingulatum)

Tóc tiên Bắc – Holcoglossum lingulatum

Cây có thân ngắn, lá dạng hình trụ nhọn. Cụm hoa đứng, hoa lớn, màu trắng, cánh môi có thùy giữa màu đỏ tím, có vạch đậm. Hoa thơm, loài Tóc tiên đặc hữu gặp trên núi đá đất vùng cao ở Sơn La, Lai Châu.

Tóc tiên Bắc phát triển tốt trong điều kiện nuôi trồng tại Hà Nội. Rễ Tóc tiên Bắc mập, dày, bám dọc theo chất trồng. Do vậy thường cho cây bám gỗ nhưng cần thiết lót thêm xơ dừa hay rêu để giữ ẩm cho rễ. Để cây ở chỗ râm, mát, tưới nước nhiều quanh năm. Hoa nở thường vào dịp năm mới, kéo dài trong 2 tuần. Loài này là loài lan đẹp và quý nhất trong chi Tóc tiên, có tiềm năng làm cảnh cao tại Hà Nội và miền Bắc.

Chi Hồ điệp (Phalaenopsis)

Các loài lan Hồ điệp rừng khác với các giống lan lai là thân thường nhỏ, hoa nhỏ, cụm hoa ngắn. Lá Hồ điệp dày, hình bầu dục. Hồ điệp được ưa chuộng bởi thân gọn gàng hoa bền và tinh tế. Tuy nhiên hầu hết các giống Hồ điệp không có hương thơm.

Các loài Hồ điệp rừng có xuất xứ từ vùng thấp hay cao trung bình, hầu hết là các loài dễ trồng và ra hoa tại Hà Nội. Tương tự như Hồ điệp lai cây được trồng trong chậu với xơ dừa hay rêu. Sau vài năm trồng, khi cây lớn cần thay chậu lớn hơn.

Hồ điệp là những loài lan ưa bóng râm, khoảng 30-40% ánh sáng trực tiếp. Tưới nước nhiều vào mùa hè nhưng tránh nước đọng ở rễ và đặc biệt là lá vì lá dày mềm, dễ thối và tồn thương. Nên tưới vào buổi sáng để tránh đọng nước vào buổi tối, dễ thối lá. Mùa đông tưới vừa phải, không để cây khô. Hồ điệp rừng không cần bón nhiều phân như Hồ điệp lai. Bón phân nhiều đạm (30:10:10) hàng tháng trong mùa sinh trưởng là đủ. Muốn thúc hoa, bón phân nhiều lân (10:30:10) nhưng không nên quá lạm dụng vì hoa chỉ ra có mùa, khác với Hồ điệp lai.

Hồ điệp Ấn (Phalaenopsis mannii)

Hồ điệp Ấn – Phalaenopsis mannii

Loài Lan này có cụm hoa ngắn. Hoa lớn, có 4-6 chiếc, xếp không quá thưa. Cánh hoa màu vàng nghệ, có vệt nhăn nheo màu nâu. Cánh môi màu vàng hay trắng nhạt. Loài này gặp rải rác ở một số tỉnh phía Bắc và miền Trung ở độ cao thấp tới trung bình.

Hoa Hồ điệp Ấn nở tháng 4, kéo dài trong vài tuần. Do có thân và hoa đẹp, dễ trồng nên đây là loài lan có triển vọng làm cảnh cao, thích hợp trồng ở ban công, cửa sổ râm mát, không chiếm nhiều diện tích.

Phong lan đa thân

Các loài Lan đa thân có trục phát triển theo chiều ngang, trên đó nảy các chồi tạo thành nhiều thân gọi là giả hành hay củ giả. Để làm cảnh, nên chọn các loài của chi Hoàng thảo có các giả hành mọc tập trung, gọn, hoa lớn và nhiều màu sắc. Những chi Lan khác ít khi được nuôi trồng ở miền Bắc do hoa có thể đẹp nhưng thân lòng thòng, lá mềm xấu, không đẹp.

Chi Hoàng thảo (Dendrobium)

Hoàng thảo là một chi lan lớn nhất trong họ lan. số lượng các loài Hoàng thảo ở Việt Nam được ghi nhận là 107 loài. Gần đây, nhiều loài Hoàng thảo mới được phát hiện và mô tả. Các loài Hoàng thảo có mặt ở tất cả các vùng sinh thái trong cả nước. Những loài Hoàng thảo dễ trồng chủ yếu là từ các vùng núi thấp hay núi cao trung bình.

Hoàng thảo là những loài lan sống bám trên cây hay đá, mọc thành bụi nhiều hành giả. Các giả hành có thể phân thành các đốt như cây tre. Nhiều loài có rãnh dọc theo giả hành.

Rễ Hoàng thảo nhỏ, tập trung ở gốc do đó cần giữ ẩm cho rễ. Phần lớn Hoàng thảo được treo trong chậu treo, dung than lot đáy chậu và buộc giữ gốc cây dùng xơ dừa hay rêu phủ rễ. Nếu buộc lên gỗ hay lên thân cây thì cần dùng chất trồng giữ ẩm tốt bó quanh rễ và tưới nước nhiều hơn.

Các loài Hoàng thảo không ưa tách bụi, chuyển chậu. Tuy nhiên sau khi trồng 2-3 năm cây ra nhiều giả hành, rễ phát triển chật chậu, cần tách bụi hay đánh chuyển sang chậu lớn hơn. Thời gian tách bụi tốt nhất là vào đầu mùa xuân khi cây bắt đầu ra rễ mới. Cũng có thể tách vào mùa thu trước khi cây bước vào thời kỳ nghỉ. Chú ý không cắt bỏ những giả hành cũ, đã rụng lá vì nhiều loài Hoàng thảo có khả năng ra hoa trong nhiều năm trên một giả hành đã rụng lá.

Nhiều loài Hoàng thảo cần có thời kỳ nghỉ khô và lạnh mới ra hoa. Đặc biệt là các loài rụng lá theo mùa, ra hoa trên thân già rụng lá của năm trước. Trong thời kỳ nghỉ, cần tưới nước rất hạn chế, chỉ đủ để cây không bị khô. Không bón phân trong mùa này. Tưới nước trở lại khi thấy xuất hiện nụ hoa. Loài không rụng lá không có mùa nghỉ rõ rệt, cần giữ ẩm hơn vào mùa đông.

Các loài Hoàng thảo thường ưa sáng, khoảng 50-70% ánh sáng trực tiếp là thích hợp. Nơi trồng thông thoáng không khí giúp cây phát triển tốt vào mùa sinh trưởng.

Do có kích thước vừa phải, hoa đẹp nên Hoàng thảo là loài Lan có giá trị trang trí cao, thường thích hợp cho không gian tương đối hẹp. Một số loài Hoàng thảo lớn có thể dùng cho trang trí sân vườn. Chi lan Hoàng thảo được dùng phổ biến để lai tạo làm cây cảnh hay cắt hoa cắt cành.

Để thuận lợi cho việc nhận biết và nuôi trồng, có thể chia chi lan Hoàng thảo thành các tông (nhóm)

Nhóm Hoàng thảo (Dendrobium)

Đặc điểm của các loài thuộc tông này là cây có giả hành dài, lá phát triển trên toàn bộ giả hành. Hoa lớn, cánh môi phẳng. Cụm hoa ít hoa, phát triển toàn bộ chiều dài già hành, cuống cụm hoa vuông góc với trục giả hành. Đây là những loài có xuất xứ từ vùng thấp hay núi cao trung bình nên tương đối dễ trồng. cần chú ý che bớt nắng vào mùa hè, để sáng vào mùa đông. Mùa hè tưới nhiều nước. Hầu như không bón tưới vào mùa đông, nhất là với các loài rụng lá.

Hoàng thảo dẹt (Dendrobium nobile)

Hoàng thảo dẹt – Dendrobium nobile

Hoàng thảo dẹt còn gọi là cẳng gà hay Thạch lộc. Cây có giả hành dẹt, lớn dần ở đỉnh màu vàng óng. Lá thuôn hình dải. Cụm hoa ngắn 1-3 hoa lớn phát triển trên các thân rụng lá. Hoa màu tím hay pha hồng. Cánh môi hoa có đốm lớn màu đỏ đậm, hoa thơm. Loài này gặp nhiều ở cả miền Bắc và miền Nam ở độ cao thấp tới trung bình.

Cây có hoa lớn, đẹp, tương đối bền, kéo dài trong 3-4 tuần. Hoa nở vào đầu xuân tháng 3-4. Kích thước cây vừa phải, thích hợp cho trang trí ban công, cửa sổ, sân vườn nhỏ. Loài này được dùng phổ biến để lai làm cây cảnh.

Loài dễ trồng, ưa sáng khoảng 50-70%. Tưới nhiều vào mùa hè. Bón phân hàng tháng. Khi lá bát đầu chuyển sang màu vàng thì giảm dần tưới nước tới ngừng hẳn vào mùa đông, để cây nghỉ đông ở chỗ sáng. Tưới lại khi rễ mới và nụ hoa bắt đầu xuất hiện.

Chủng hoa trắng (D. nobile var alboluteum) có hoa màu trắng tỉnh, có đốm vàng ở giữa. Loài được tìm thấy ở Gia Lai và có thể gặp rải rác ở những vùng khác.

Hoàng thảo Long nhãn (Dendrobium fimbriatum)

Hoàng thảo Long nhãn – Dendrobium fimbriatum

Cây mọc thành bụi với giả hành cao đến 2m. Lá hình giáo. Cụm hoa trên thân có lá, tương đối dài và nhiều hoa. Hoa lớn 8-15 chiếc, màu vàng nghệ. Cánh môi có đốm lớn màu đỏ đậm ở giữa, mép có lông chia nhánh, Hoa thơm. Loài gặp phổ biến ở nhiều nơi cả phía Bắc và phía Nam ở các độ cao khác nhau.

Cây có hoa đẹp nở rộ vào tháng 5, bền 3-4 tuần. Kích thước cây tương đối lớn nên dùng cho không gian rộng ngoài sân vườn. Loài dễ trồng, ưa sáng 50-70%. Chăm sóc cây tương tự như Hoàng thảo dẹt.

Loài Hoàng thảo vàng cam hay Kim thoa (D.chryseum) cũng hay gặp và rất giống loài trên, nhiều khi gọi cùng tên. Phân biệt là thân ngắn hơn, lòng cánh môi không phân nhánh như loài Hoàng thảo long nhãn, ít thơm hơn.

Hoàng thảo giả hạc (Dendrobium anosmum = D.superbum)

Hoàng thảo giả hạc – Dendrobium anosmum = D.superbum

Hoàng thảo giả hạc còn gọi là Phi điệp. Cây có giả hành hình trụ, buông dài đến 1-2m, Hoa đơn độc trên các đốt già rụng lá, lớn. Cánh hoa màu hồng tím. Cánh môi có đốm lớn màu tím đậm. Cây gặp phổ biến nhiều nơi ở cả miền Bắc và Tây Nguyên trên núi đất ở các độ cao thấp hay cao trung bình.

Cây cho hoa lớn, màu đẹp, thích hợp trồng ở các chậu treo lớn. Hoa nở tháng 4-5, kéo dài trong 1 tuần. Loài tương đối dễ trồng, ưa sáng 40-60%. Tưới nước và bón phân như các loài lan Hoàng thảo rụng lá khác.

Loài Hoàng thảo tím hồng (D.parishii) có hoa màu sắc tương tự, phân biệt là thân mọc thẳng hơn, hoa đậm màu hơn, cánh hoa trong có răng cưa nhỏ, hoa rất thơm. Loài này gặp rải rác từ Bắc vào Nam.

Hoàng thảo tua (Dendrobium harveyanum)

Cây có giả hành ngắn, mập, thuôn nhỏ dần ở gốc. Cụm hoa tương đối dài và nhiều hoa, Hoa lớn, màu vàng tươi. Cánh môi xòe rộng màu vàng cam, mép có tua nhỏ đều. Mép cánh trắng có tua lông dài. Loài này gặp ở Tây Nguyên trên núi đất ở độ cao trung bình.

Cây có hoa chùm đẹp, nở rộ vào tháng 2-3, kéo dài 5-10 ngày. Rất thích hợp trồng trong các chậu treo nhỏ. Loài tương đối dễ trồng, ưa sáng 50-70%. Cây rụng lá mùa nghỉ và chăm sóc như những loài Hoàng thảo khác cùng nhóm.

Loài đáng chú ý khác:

Hoàng thảo đơn cam (D. Unicum) có hoa lớn trên thân ngắn màu cam đậm gặp ở Tây Nguyên. Hoa rất đẹp nhưng ít thấy ở Hà Nội và tương đối khó trồng.

– Hoàng thảo hoa vàng hay Phi điệp vàng (D.chrysanthum) có hoa vàng chấm nâu trên thân có lá. Cây có mùi thơm cơm nếp. Hoa nở mùa thu, thường đúng 2/9. Cây thường gặp ở miền Bắc vào mùa hoa.

– Hoàng thảo tam bảo sắc (D.devonianum) có hoa nở đều dọc trên thân, cánh hoa màu trắng có đỉnh hồng, cánh môi có họng vàng cam. Loài này gặp rải rác ở Tây Bắc và Tây Nguyên.

– Hoàng thảo u lồi (D.Pendulum) có các đốt thân phình lên ở đỉnh, hoa nở đều dọc trên thân, cánh hoa màu trắng có đỉnh hồng, cánh môi có đốm màu vàng. Loài này gặp ở miền Bắc nhưng tương đối khó trồng và không đẹp khi không có hoa.

Nhóm Kiều (Chrysotxae)

Các loài thuộc tông này đặc trưng bởi các giả hành ngắn, mập. Lá tập trung ở ngọn, bẹ lá rất ngắn, không rụng lá vào mùa đông. Hoa ở gần đỉnh, chùm dài, nhiều hoa lớn.

Các loài Kiều Hoàng thảo có xuất xứ từ vùng thấp hay cao trung bình, tương đối dễ trồng. Đây là những loài ưa sáng trung bình, cần tưới nước vừa phải vào mùa hè. Mùa đông tưới đủ giữ ẩm và để cho chất trồng có thời gian khô giữa các đợt tưới nước. Bón phân hàng tháng vào mùa cây bắt đầu nhú nụ tới đầu mùa lạnh.

Hoàng thảo vảy rồng (Dendrobium lindleyi)

Hoàng thảo vảy rồng – Dendrobium lindleyi

Cây có giả hành rất ngắn 3-10cm, củ giả ảp sát vào giá thể. Trên đỉnh giả hành chỉ mang 1 lá. Cụm hoa tương đối dài và nhiều hoa. Hoa lớn, màu vàng tươi. Cánh môi màu vàng có đốm vàng đậm, mép nhăn nheo, phân bố rộng từ Bắc vào Nam ở các độ cao thấp và trung bình.

Cây có hoa chùm đẹp, nở rộ trong thời gian ngắn vào tháng 5. Do đặc điểm giả hành mọc sát chất trồng nên thường lan Vảy rồng được gắn vào các khúc dớn hay gỗ có diện tích rộng và giữ ẩm tốt. Loài dễ trồng, ưa sáng 40-70%. Tưới nhiều vào mùa hè. Cần có mùa nghỉ 2-3 tháng lạnh, ít tưới và để chỗ sáng cho ra nhiều hoa.

Hoàng thảo duyên dáng (Dendrobium amabile)

Hoàng thảo duyên dáng Dendrobium amabile

Hoàng thảo duyên dáng còn gọi là Kiều tím. Giả hành cao tới 40cm, có rãnh dọc, màu nâu đen. Cụm hoa buông xuống, đài 30cm và nhiều hoa. Hoa lớn, xếp thưa màu hồng nhạt. Cánh môi có đốm màu vàng cam, mép có lông. Loài đặc hữu miền Trung, cũng có thể gặp ở miền Bắc ở độ cao thấp.

Loài này có hoa chùm đẹp, nở rộ vào tháng 5-6, hoa bền 5-10 ngày, Cây thích hợp cho trồng trang trí ngoài sân vuờn. Loài dễ trồng ưa sáng 50-70%. Có thể trồng trong chậu có lót thân và phủ rễ bằng chất trồng mềm như xơ dừa, rêu hoặc buộc vào khúc dớn, thân cây dương xỉ. Chăm sóc cây như các loài Kiều khác.

Hoàng thảo thủy tiên vàng (Dendrobium palpebrae)

Hoàng thảo thủy tiên vàng – Dendrobium palpebrae

Loài này còn gọi là Hoàng lạp hay Hoàng thảo mỡ gà. Cây có giả hành ngắn, 30-50cm, có rãnh, màu vàng, phình ở giữa. Hoa màu vàng tươi, bóng. Cánh môi có đốm màu vàng đậm, mép có lông mịn. Cây mọc chủ yếu ở một số tỉnh miền Trung và Nam bộ trên núi đất ở độ dốc cao thấp hoặc trung bình.

Cây có thân gọn gàng, hoa tươi màu, được coi là một trong những loài Lan Hoàng thảo có giá trị làm cảnh thất. Chế độ chăm sóc như các loài lan Kiều khác.

Loài tương tự là Kiều vàng (D.thysiflorum) có thân dài hơn, ít mập và phình hơn.
Hoa không bóng như Thủy tiên vàng, có bán nhiều ở Hà Nội vào mùa hoa.

Hoàng thảo thủy tiên (Dendrobium palpebrae Lindl)

Hoàng thảo thủy tiên – Dendrobium palpebrae

Loài này còn gọi là Kiều trắng. Cây có giả hành ngắn 30cm, màu xanh, 4 cạnh. Cụm hoa buông xuống, dài trên 20cm và nhiều hoa. Hoa lớn, xếp thưa, màu trắng. Cánh môi gần vuông, họng màu vàng đậm, mép có lông. Hoa thơm. Loài mọc chủ yếu ở Tây Nguyên và Nam bộ trên núi đất ở các độ cao khác nhau.

Loài này có hoa chùm đẹp, nở rộ vào tháng 4-5, hoa nở kéo dài 5-10 ngày, thích hợp trồng chậu treo nhỏ để trang trí cửa sổ, ban công. Nhu cầu ánh sáng và chăm sóc tương tự như các loài lan Kiều khác.

Hoàng thảo thất điểm hồng (Dendrobium draconis)

Hoàng thảo thất điểm hồng – Dendrobium draconis

Loài này có giả hành cao 2-40cm, chia đốt, khía dọc, lá có bẹ. Cụm hoa gần đỉnh 2-5 hoa. Hoa lớn màu trắng, cánh môi có sọc đỏ cam, hoa thơm. Loài gặp ở miền Nam trên núi đất ở độ cao trung bình đến cao. Loài Lan này tương đối khó trồng. Cây ưa sáng 40-70%, đòi hỏi tưới nước thường xuyên. Cây mọc thành bụi nên trồng trong chậu lót than và phủ chất trồng mềm và giữ ẩm tốt như có xơ dừa, rêu lên rễ. Hoa nở tháng 3-4 bền trong 3-5 tuần.

Các loài đáng chú ý khác:

– Hoàng thảo hoả hoàng (D.belatulum) có giả hành ngắn chia 3 đốt, hoa màu trắng, cánh môi màu đỏ cam. Loài gặp ở Tây Nguyên, thỉnh thoảng có bán tại Hà Nội.

– Hoàng thảo xương rồng (D.carniferum) có hoa màu trắng vàng, đỉnh có đốm vàng, họng đỏ. Loài gặp ở Lâm Đồng, Tây Bắc nên vào mùa hoa có thấy bán ở Hà Nội.

– Hoàng thảo tam giác (D.trigonopus) hoa màu vàng tươi, họng xanh, cánh hoa hình tam giác.

Các nhóm khác

Những loài trong các tông khác thường là hoa nhỏ, thân xấu hoặc khó trồng nên không phổ biến. Một số loài đẹp, cần tìm hiểu thêm cách nuôi trồng là:

Hoàng thảo báo hỷ (Dendrobium secundum) có giả hành mập có khía. rãnh hơi thuôn ở giữa, lá mềm. Cụm hoa cứng mọc nghiêng ở đỉnh. Nhiều hoa nhỏ xếp sát về một phía. Hoa màu hồng pha tím. Loài phân bố ở miền Nam nhưng tương đối dễ trồng ở Hà Nội.

– Hoàng thảo Tuấn Anh (Dtrantuanni) mới được phát hiện ở núi Hoàng Liên Sơn (mang tên một người sưu tầm Lan trong chi hội Lan Hà Nội). Cây có giả hành dẹt ngắn, mập, có rãnh nông, thuôn nhỏ ở gốc. Hoa mọc đều trên thân, màu trắng hồng, họng nâu đậm, rất bền.

– Hoàng thảo môi tua (D.brymerianum) có giả hành màu vàng phình ở gốc, thuôn nhỏ ở đỉnh. Cụm hoa ngắn, hoa màu vàng tươi, cánh môi có lông tua dài. Loài mọc ở Lai Châu, Lào Cai, có bán ờ Hà Nội vào mùa hoa.

Địa lan

Đây là những loài lan mọc trên đất, có rễ ăn vào trong đất hoặc len lỏi giữa các kẽ đá. Thân cây có thể nổi trên mặt đất (bán địa lan) hay ngập trong đất (địa lan thật).

Nhóm lan Gấm

Nhóm này được trồng làm cảnh chủ yếu vì có lá màu sắc đẹp. Những loài này mọc trên núi đá hoặc núi đất, thân ngầm nổi, rễ ăn vào lớp thảm mục của rừng. Phần lớn các loài lan Gấm nói riêng và Địa lan nói chung ra hoa vào mùa đông hay đầu xuân.

Lan lá Gấm (Ludisia discolor)

Lan lá Gấm – Ludisia discolor

Cây có thân rễ bò dài, sau đó vươn lên, mập. Lá bầu dục, phiến màu nhung đen, nổi rõ các gân mảnh dọc theo lá màu đỏ, mặt dưới lá đỏ. Cụm hoa mọc thẳng từ đỉnh, hoa thưa màu trắng. Lan gấm gặp ở hầu hết các vùng trong cả nước ở độ cao thấp.

Loài này tương đối khó trồng. Cây ưa bóng râm, 30-50% ánh sáng. Tưới nước thường xuyên nhưng tránh đọng nước vào thân lá. Dùng chậu nông, lót than, trên rải rêu, xơ dừa, pha thêm một ít đất với than bùn. Chỉ đặt thân lên mặt chậu rồi dùng rêu, lá khô phủ thân, không được chôn vì dễ làm thối thân. Cây có hoa tháng 2-3, bền 20-40 ngày, thơm. Loài được trồng làm cảnh do lá có vân màu sắc đẹp, thích hợp để bàn, trang trí nội thất tốt vì có khả năng chịu bóng và có kích thước nhỏ.

Loài đáng chú ý khác:

Các loài trong chi Kim tuyến (Anoectochilus), Gấm đất (Goodyera) có cấu trúc thân và lá tương tự như Lan lá Gấm cũng là những loài có tiềm năng trang trí nội thất cao. Tuy nhiên, những loài này nhạy cảm với nước đọng, không chịu được nhiệt độ cao trong mùa hè ở Hà Nội. Loài thích hợp trang trí bên cửa sổ trong các phòng có điều hoà nhiệt độ.

Nhóm Lan đất

Đây là những loài Lan mọc trong các bãi cỏ ven rừng, cạnh ruộng. Cây phát triển trên đất có nhiều khoáng sét, tầng đất dày. Do vậy những loài này thường dễ trồng, thích hợp trồng trong chậu như những cây cảnh thông thường. Đất trồng có thể là đất vườn, bổ sung một ít mùn bằng than bùn hay giá thể hữu cơ khác.

Hạc đỉnh nâu (Phaius tankervilleae)

Cây có củ giả lớn, thân cao 50-60cm, lá lớn. Cụm hoa thẳng, mọc từ nách lá gốc củ giả, cao tới 70cm. Hoa nhiều, rất lớn, màu trắng ở mặt ngoài, nâu ở mặt trong. Cánh môi màu đỏ có vạch vàng. Cây mọc rải rác ở hầu hết các vùng trên các sình lầy ở độ cao thấp và trung bình.

Loài lan này dễ trồng, ưa bóng râm. Tưới nước thường xuyên nhưng tránh đọng nước. Đất trồng cần thoáng, xốp, hoặc trộn rêu, dớn mục. Bón phân hữu cơ nhiều có tác dụng tốt. Hoa thơm nở tháng 2-3, vào dịp 8/3, bền 20-30 ngày.

Cùng chi Hạc đỉnh còn có một số loài khác có hoa vàng, trắng hay hồng. Tuy nhiên ít thấy những loài này có bán ở Hà Nội.

Chu đỉnh tím (Spathoglottis plicata)

Cây có củ giả nhỏ, thân cao 40-50cm. Lá thuôn dài. Cụm hoa thẳng mang hoa ở đỉnh. Có từ 7-10 bông, lớn, màu tím hay trắng. Cánh môi màu tím đậm, có họng vàng nhỏ. Loài có nguồn gốc từ vùng phía Nam trên núi đất ở độ cao thấp.

Chu đỉnh tím là loài cây lan rất dễ trồng, ưa sáng. Cây có thể trồng trong chậu cảnh hay trồng ven tường thành hàng hoa. Hoa nở hầu như quanh năm, không có mùa xác định. Hoa bền và thơm, Khi chăm sóc, cần tưới thường xuyên nhưng tránh để đọng nước, Dùng đất vườn thoáng, xốp trộn với một phần giá thể hữu cơ. Bón phân hữu cơ có nhiều tác dụng tốt cho cây và hoa.

Cùng chi lan Chu đỉnh có thể gặp một số loài khác có hoa vàng hay trắng, nhưng ít thấy có tại Hà Nội.

Môt số lan Hài

Lan Hài hồng (Paphiopedilum Delenatii)

Loài Lan này có mặt ở Nha Trang (Khánh Hoà) và giữa Ninh Thuận – Khánh Hoà tại độ cao khoảng 800 – 130Om. Dễ trồng, hoa có màu trắng pha hồng, đặc biệt cánh môi thường có màu hồng. Mọc trên đất. Cây có các hình lá bầu dục dẹp màu xanh với vân đậm nhạt, ở mặt trên và dưới có nhiều chấm nâu đỏ đôi khi dày đặc thành một màu hung đỏ. Cụm hoa thường mang 1-2 hoa, kích thước hoa 9x7cm, hoa thường nở vào mùa đông, độ bền hoa 20-40 ngày, có hương thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 13-35°c. Giá thể thích hợp là mùn, dớn hoặc xơ dừa

Lan Hài Liên (Paphiopedilum tranlienianum)

Lan Hài Liên – Paphiopedilum tranlienianum

Loài này có mặt ở Thái Nguyên với độ cao trung bình từ 500-800m dễ trồng hoa có màu nâu với đài trên màu trắng, mọc trên đất đôi khi trên đá. Cây có các loại lá dạng dải, hơi mềm, mặt trên màu xanh đậm với mép lá màu xanh hay màu trắng mặt dưới xanh nhạt. Cụm hoa mang 1 hoa, kích thước hoa 6x7cm, hoa thường nở vào mùa đông độ bền hoa >45 ngày, hơi có hương thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 1O-40%, nhiệt độ 5-35°C. Giá thể thích hợp là dớn và xơ dừa và nên bổ sung đá vôi.

Lan Hài He ri (Paphiopedilum henryanum)

Lan Hài He ri Paphiopedilum henryanum

Loài này có mặt ở Hà Giang với độ cao trung bình từ 1000 – 1200m. Dễ trồng, hoa có màu đỏ sen, cánh trắng màu nâu đỏ pha xanh và đài trên mang màu xanh vàng với các chấm to màu nâu đỏ, mọc trên đất. Cây có lá hơi dựng, cứng và hơi dày, dạng vàng, mặt trên xanh đậm với mép lá vàng hay trắng vàng, mặt dưới màu xanh nhạt với các chấm nhỏ dày đặc màu nâu đỏ ở gốc lá. Cụm hoa thường mang 1 hoa, kích thước hoa 8x7cm, hoa thường nở vào mùa thu-đông, độ bền hoa 20-40 ngày, không có hương thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 5-35°c. Cây ưa độ thông thoáng, giá thể thích hợp là dóm và xơ dừa.

Lan Hài Hec man (Paphiopedilum herrmannii)

Loài này có mặt ở Cao Bằng với độ trung bình từ 800-1200m. Hoa có màu nâu đỏ ở cánh tràng, đỏ ở môi và đài màu nâu đỏ với viền màu xanh nhạt, sống trên đất, cây có lá dạng dài và nhỏ và hơi cứng, mặt trên có màu xanh bóng với mép lá màu xanh nhạt, cụm hoa mang 1 hoa, kích thước hoa 8x7cm, hoa thường nở vào mùa đông xuân, độ bền hoa 20-44 ngày, không có hương thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ 10-40%, nhiệt độ 8-35°C, cây ưa độ ẩm và thoáng, giá thể thích hợp là dớn và xơ dừa.

Phân bố: Đây là một loài lai tự nhiên giữa Paph. Barbigerum X Hirsutissimum var esquirolei phân bố ở khu vực biên giới Việt Nam – Trung Quốc

Loài Hài Việt (Paphiopedilum vietnamense)

Loài này hiện diện ở Thái Nguyên với độ cao trung bình 1000m, đễ trồng, hoa có màu hông pha trăng đên đỏ tím, mọc trên đât hay bám trẽn đá. Cây cỏ lá to, bóng, dạng xoăn và dai, mặt trên bóng xanh với các vân đậm nhạt, mặt dưới có nhỉều chấm nâu đỏ dày đặc đến đồng màu nâu đỏ. Cụm hoa mang một hoa, ít khi có hai hoa, kích thước hoa 9x12cm, hoa thường nở vào mùa đông xuân, độ bền hoa 20-44 ngày, ít thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 8-35QC, giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa hoặc mùn và nên bả sung đá vôi.

Loài Hài hằng (Paphiopedilum hangianum)

Loài Hài hằng (Paphiopedilum hangianum

Hiện diện ở Tuyên Quang, Bắc Cạn với độ cao trung bình từ 800 – 1OOOm. Hoa có màu vàng đến vàng nhạt hay vàng xanh, mọc trên đất hay bám trên đá. Cây có lá thuôn dài, to và cứng, mặt trên có màu xanh đậm, mặt dưới có màu xanh nhạt. Cụm hoa mang 1 hoa hiếm khi có 2 hoa, kích thước hoa 16xl4cm, hoa thường nở vào mùa xuân, độ bền hoa 20-44 ngày, rất thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 8-35°c, giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa và nên bổ sung đá vôi.

Loài Hài vàng chấm tía (nâu) (Paphiopedilum concolor)

Loài Hài vàng chấm tía (nâu) – Paphiopedilum concolor

Loài này có mặt ở Ninh Bình, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hài Phòng, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Bắc Giang với độ cao trung bình từ 100 – lOOOm, dễ trồng, hoa thường có màu trắng đến vàng nhạt, trên cánh có nhiều chấm nhỏ màu nâu đỏ, mọc trên đất. Cây có lá hình xoan dài, màu xanh với các vân đậm nhạt ở trên mặt và mặt dưới có nhiều chấm màu nâu đỏ đôi khi đồng nhất màu nâu đỏ ở mặt dưới. Cụm hoa thường mang 1-3 hoa, kích thước hoa 6x6cm, hoa thường nở vào mùa xuân hè, độ bên hoa 20-44 ngày, ít thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 10-35°c. Giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa.

Loài Hài Hê len (Paphiopedilum helenae)

Loài Hài Hê len – Paphiopedilum helenae

Loài này có mặt ở Cao Bằng tại độ cao 800-1000m, hoa có màu vàng nhạt, đài trên màu vàng với mép màu trắng, mọc bám trên đá. Cây nhỏ với các lá cứng, hơi dày và hẹp dài, mặt trên có màu xanh đậm với mép lá có màu vàng nhạt hay trắng xanh, mặt dưới xanh nhạt với gốc lá có các chấm nhỏ màu nâu đỏ. Cụm hoa mang một hoa, kích thước hoa 6x7cm, hoa thường nở vào mùa thu đông, độ bền hoa 20-44 ngày, không thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che 10-40%, nhiệt độ 10-35°c. Giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa và nên bổ sung đá vôi.

Loài Hài tía (Paphiopedilum purpuratum)

Loài này hiện diện ở Lâm Đồng, Tuyên Quang tại độ cao trung bình 700m, rất dễ trồng, hoa có màu nâu đỏ đến đỏ tím với đài trên màu trắng có sọc nâu tím pha xanh, mọc trên đất. Cây có lá dạng xoan, mặt trên có màu xanh với các vân đậm nhạt, mặt dưới có màu xanh nhạt đến chấm xanh, cụm hoa mang 1 hoa lớn, kích thước hoa 8×6,5cm, hoa thường nở vào mùa đông xuân, độ bền hoa >45 ngày, không thơm. Cây ưa ẩm và thoáng, ánh sáng tán xạ che sáng 10-40%, nhiệt độ 5-35°C, giá thể thích hợp là dớn, xơ dừa.

Một số loài địa lan thuộc chi lan Kiếm:

Cây có bộ lá xanh, bóng, đẹp, hoa nở vào dịp tết Nguyên Đán, đặc biệt có hương thơm rất hấp dẫn như loài Mạc Đại Hoàng Biên – Cymbidium sp. Cây mọc nhiều ở vùng núi phía Bắc giáp Trung Quốc, vùng Hoà Bình, Lai Châu, Sơn La. Một số loài địa lan cũng thuộc chi lan Kiếm nhưng nở hoa vào cuối tháng 9 đến tháng 11 dương lịch. Cây có bộ lá đẹp, cứng, hoa thơm, đặc biệt là những ngày có gió heo may mùi thơm lại càng hấp dẫn. Đại diện cho loại này là Trần Mộng – Cymbidium sp, Đông Lan – Cymdibium sp. Cây phân bố rộng ở các vùng núi đá vôi thuộc các tỉnh phía Bắc.

Một số loài đáng chú ý khác:

Lan sậy (Arudina graminifolia) có thân mảnh, lá dạng cỏ. Cụm hoa mọc từ đỉnh, nhiều hoa nhưng hoa nở dần. Hoa lớn, màu hồng họng tía với đốm vàng nở không có mùa xác định. Loại có rải rác ở các bãi ven núi từ Bắc vào Nam. Thỉnh thoảng có bán ở Hà Nội nhưng ít người trồng.

Các loài địa lan lai tạo (Địa lan hoa to)

Theo phân loại thực vật, địa lan có chừng 48 loài, ở Trung Quốc có 30 loài, được chia ra làm hai loại là loại hoa nhỏ và hoa to. Hiện nay có khoảng 20 loại lan được dùng lam nguyên liệu lai tạo, gồm có loại hoa lan như Lan đầu hổ Lan mỹ hoá Lan bích ngọc, Lan đầu hổ Tây Tạng, Lan độc chiếm xuân, phong lan tím, phong lan châu Âu, phong lan đức thị, đại tuyết lan… Những giống lan lai được tạo thành từ các loài trên có tới vài nghìn. Hiện nay có những loại ra hoa sớm, ra hoa muộn, muộn trung bình, có loại cho hoa to, hoa xanh, hoa nhiều màu, lại có hoa hình dáng, màu sắc, hương thơm đa dạng.

Việt Nam có khoảng 900-1000 giống lan phần đông do các khoa học nước ngoài tìm ra do đó đều có tên khoa học. Cũng vì vậy nhiều cây chưa có tên Việt Nam hoặc có tên nhưng do một vài người đặt ra hoặc có tên từ trước. Những tên này không được thống nhất, không phân rõ loài và giống cho nên rất phức tạp, hơn nữa lại không được văn vẻ, thanh lịch và thích hợp với loài hoa Vương giả. Sau đây là một số cây có tên theo sách của các giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Trần Hợp như sau:

Bạc diệp —————————— Tainia latifolia, macrantha, pancifolia
Bạc lan ——————————- Cymbiđium erythrostylum (Đặc hữu)
Bạch càu, Tuyết mai—————— Dendrobium crumenatum
Bạch hạc —————————– Thunia alba
Bạch huệ đồng ———————– Vanda denisoniana alba
Bạch nhạn —————————- Dendrobium formosum
Bạch phượng ————————- Pecteilis cochinchinensis.susannae
Bảo hỉ ——————————– Dendobium secundum
Bích ngọc —————————- Cymbidium dayanum
Cẩm báo —————————– Hygrochiius parishii
Cầu diệp —————————– Bulbophyllum
Chu đinh tím ————————- Spathoglottìs plicata
Chu đinh vàng ———————– Spathoglottis aurea
Chu thư —————————— Peristylus candidus, chapaensis, parishii
Giã hạc, Lưỡng điểm hạc ———— Dendrobium anosmum
Giải thủy —————————- Anoectochilus, lancolatus, lylei, roxburghii
Giáng Hương ———————— Aerides odorata, multiflora, houlettiana
Hà biện —————————— Habenaria dentata, lindleyana, rhodochilq
Hạc đỉnh —————————- Phalus tankervillae hay Phajus tankervilleae
Hạc lan —————————— Dendrobium incurvum
Hạc vĩ ——————————- Dendrobium aphyllum
Hài hồng —————————- Paphiopediium delenatii (Đặc hữu)
Hàm lân cứng ———————- Gastrochilus calcoelaris, hainanensis
Hảo lan —————————– Goodyera foiiosa, fumata
Hỏa hoàng ————————– Ascocentrum miniatum
Hoàng kiếm lan ——————— Cymbidium itnlaysonianum
Hoàng long ————————- Coelogyne fawrenceana
Hoàng thảo hỏa hoàng ————- Dendrobium beílatulum
Hoàng thảo bạch hoàng ———— Dendrobium chrystianum
Hoàng thảo tím ——————— Dendrobium amabile (Đặc hữu)
Hoàng nhạn ———————— Dendrobium pendulum
Hồng hoàng kiếm —————— Cymbidium iridioides
Hồ điệp —————————– Phalaenopsis
Hồng câu ————————— Dendrobium aduncum
Hồng kiếm lan – ——————– Cymbidium insigne
Huyết nhung ———————– Renanthera coccinea
Kim điệp ————————— Dendrobium chrysotoxum
Kim điệp vẩy cá, vẩy rồng ——– Dendrobium lindleyi, aggregatum
Kiều lan, Bầu ruợu —————- Calanthe cardioglossa, densiflora, vestita
Lá gấm, gấm đất —————— Ludisia discolor
Luân trần ————————– Eulophia spoctabilis
Long tu —————————- Dendrobiưm primulinum
Lọng điểm ————————- Bulbophyllum
Mặc lan —————————- Cymbidium sinense
Mao lan ————————— Trichotosia dalatensis, dasyphylia
Mao thiệt ————————- Trichoglottis retusa, seidenfadenii
Mặt khẩu ————————- Cleisostoma chantaburiense, racemiferum, crochetti
Móng rùa ————————- Oberonia dalatensis, evrardii, langbianensis
Ngọc điểm (đuôi chồn) ———– Rhynchostyiis gigantea
Ngọc điểm đai châu, đuôi cáo —- Rhynchostylis retusa
Ngọc vạn ————————- Dendrobium chryseum, chrysanthum, crystalianum
Nhẵn diệp ———————— Liparis distans, empties, cordifolia
Nhất điểm hồng —————— Dendrobium draconis
Nhất điểm hoàng —————- Dendrobium heterocarpum
Nĩ lan —————————- Eria muscicola, globifera, floribunda
Phượng vĩ ———————– Renanthera imschootiana
Sậy lan ————————– Arundina graminifolia
Tai dê ————————— Liparis caespitosa, dendrochiloides
Tam bảo sắc ——————– Dendrobium devonianum
Thạch hộc ———————- Flickingeria albopurpurea, angustifolia, fimbriata
Thanh đạm tuyết ngọc ——— Coelogyne mooreana (Đặc hữu)
Thanh ngọc ——————— Christensonia vietnamica (Đặc hữu)
Thanh lan ———————- Cymbidium ensifolium
Thủy tiên ———————– Dendrobium palpebrae
Thủy tiên tím ——————- Dendrobium amabile (Đặc hữu)
Thủy tiên vàng —————– Dendrobium densiflorum
Tóc tiên ———————— Holcoglossum kimballianum
Trân châu ———————- Nervilis plicata, prainiana
Trâm lan ———————– Pecteilis
Trần Mộng, Hoàng phi hạc —– Cymbidium lowianum
Trần tuấn ———————- Dendrobium trantuanii (Đặc hữu)
Tri thù, Lan Nhện ————– Arachnis
Trúc lan ———————— Dendrobium hananensis, hancockii
Tục đoạn ———————– Philodota articulata,bracteata, chinensis
Tứ bảo sắc, Ngũ tinh ———- Dendrobium wardtanum
Vân đa dạ hương ————– Vanda denisoniana
Vân hài ———————— Paphiopedilum callosum
Vân lan ———————— Vanda
Vệ hài, Tiên hài, Nữ hài ——- Paphiopedilum
Vô diệp lan ——————– Chiloschista
Ý thảo ————————- Dendrobium gratrossimum

Xem thêm: 4 bí quyết – 9 kinh nghiệm chọn mua Lan Rừng ll Bí quyết xử lý Lan Rừng nhanh ra hoa và lâu tàn

Vườn Thực Nghiệm AGRIMARK 
ĐC: F8/3A Võ Hữu Lợi, X.Lê Minh Xuân, H. Bình Chánh, TP.HCM - ĐT: 0915 35 35 75
 Emai: [email protected] - Hot line: 0915 35 35 75
agrimark.org là website chia sẻ kiến thức phi lợi nhuận
LH Quảng cáo: CÔNG TY TRUYỀN THÔNG BẦU TRỜI MỚI
776 - C84/8 Nguyễn Văn Quá , Q.12, TP.HCM
EMG