Viện bảo tàng Bonssai và Penjing giữa thủ đô nước Mỹ

AgriMark đăng tải bài viết của Anh Huỳnh Văn Ba về Bonsai và Penjing tại Mỹ. Đây là tư liệu hay để bạn đọc trong nước tham khảo, trong bài có  những cảm nhận cá nhân của tác giả. Ban Biên Tập tôn trọng nên giữ nguyên văn, mời các bạn thưởng lãm.

Cuối tháng năm vừa qua (2013) tôi có dịp đi  Washington D.C. và viếng thăm "National Bonsai & Penjing Museum". Bảo tàng viện nầy nằm trong khung viên của "National Arboretum" (vườn bách thảo quốc gia).

"National Bonsai & Penjing Museum" (xin gọi tắt là NB&PM)  được xây cất để đón nhận món quà tặng của Nippon Bonsai Association (Hội Bonsai Nhật Bản)  với một collection 53 chậu cây bonsai và 6 cục "Suiseki" (水石 – đá cảnh, "viewing stones"). Món quà quí báu nầy là lời nói biết ơn của nhân dân Nhựt đối với tình hữu nghị giữa 2 quốc gia Nhật Mỹ trong dịp đón chào ngày sinh nhật thứ 200 của Hoa Kỳ (1976).

NB&PM là nền tản cho sự phát triển nghệ thuật thưởng ngoạn cây cảnh trong đại chúng Mỹ – một cảm giác về tinh thần người Tây Phương chưa từng biết. Nhiều người Mỹ bắt đầu nói "bonsai", nuôi "bonsai" và yêu "bonsai".

Năm 1986 theo gương Nhật Bản hai bác sĩ người Hoa Hồng Kông là Wu Yee-sun (伍宜孫 –  Ngũ Nghi Tôn) và Lui Shu-ying biếu tặng viện nầy một số "Penjing" TQ. Qua đó người bình dân Mỹ mới khám phá ra "penjing" chính là cây tổ của "bonsai". Cũng nhờ sự hảo tâm  của bác sĩ Wu tòa China Pavillion được xây cất dướí sự chỉ đạo và trợ giúp tài chánh của ông.     

Ngày nay NB&PM có tất cả 4 pavillions đó là: (1) International Pavillion, (2) Japanese Pavillion, (3) Chinese Pavillion và (4) North American Pavillion nằm liên kết với nhau như 4 cục "lego". Số bonsai và penjing hiện nay lên đến khoảng 150 chậu.  Ngoài pavillions NB&PM còn có một nhà kiếng để bảo vệ cây nhiệt đới trong đó có cây cảnh và hòn non bộ của Việt Nam ta.

Chức năng của 4 pavillions:

"International Pavillion" – đúng như tên được gọi, là một tòa nhà quốc tế,  có văn phòng ban  quản trị của công viên, phòng hợp, thư viên và phòng triển lãm. Hàng năm có nhiều shows về "Ikebana" (生け花・thuật cắm hoa NB), "sadō"(茶道・trà đạo) và những hoạt động khác về nông nghệ, lớp dạy "origami" (折り紙), cắm hoa và bonsai. Nơi đây có một gian phòng "tokonoma" (床の間) đơn thuần  tiêu biểu cho lối sống  cổ truyền Nhật Bản – đôi khi chỉ có chưng một cục đá (hay một đĩa hoa, một cây bonsai) và một  bức họa (hay Hán thư của thánh hiền hoặc thi bá) gọi là "kakemono"(掛物) hay "kakejiku"(掛軸).   "Ngoài ra là  một "văn phòng Đường phong" với câu Hán thi treo tường , mấy cục đá cảnh và đá hoa cúc tiêu biểu cho lối sống  hào hoa phong nhả của Nho gia TQ .

"Japanese Pavillion" và "Chinese Pavillion" dùng để triển lãm "bonsai" của Nhật và "Penjing" của TQ, cả hai có nhiều điểm giống nhau nhưng lại có đặc thù của dân tộc tính của họ. Người Nhật cho thấy nhiều kỹ thuật thẩm mỹ qua kỷ luật nghiêm khắc thầm kính "wabi-sabi", rất đơn giản nhưng lại súc tích như "Thiền"."Penjing" TQ thì bay bướm hơn với nhiều lỏng lẻo tự do, nhiều đồ trang sức giúp cường điệu lòng hâm mộ. Qua đó "penjing" có chỗ gần cây cảnh của Việt Nam ta. Sự bày trí đá cảnh với cây cảnh của Trung Hoa thật siêu việt. Nó gợi lại trong đầu người nhìn một thế giới Đạo gia qua "bồng lai"  (蓬莱) tam đảo trong đó Phương Trượng (方丈) đang ngồi câu cá với Doanh Châu (瀛州), Đại Dư (岱輿) đang đánh cờ với Viên Kiều (員嬌).

Tòa nhà "North American Pavillion" là chỗ để nghệ nhân địa phương phô trương sự điêu luyện về bonsai của mình trước mắt Thế Giới. Nơi đây chùm cây "Goshin"  – một master piece  của master John Naka được trưng bày ở một vị trí độc chiếm (xin xem phía sau). John Naka là người thầy của thầy tôi trong nghề chơi bonsai từ 1988 khi tôi bước vô nghề nầy. Ông là người rất phóng khoáng, có giáo dục nhiều, thích kể chuyện vui và thích chia sẻ hiểu biết. Vì thế John được rất nhiều người yêu chuộng trên khắp năm châu. Tượng ông nằm ngay cửa vào gần "Goshin"  để đón mọi khách đến viếng thăm.

Vài đặc sắc của NB&PM

Tôi còn nhớ mãi câu nói của John Naka – "Shibui ne…" (cool…?!) lúc nhìn những bức tường phong sương rong đóng phía sau mấy chậu cây khi ông kể lại chuyến viếng thăm vườn cây cảnh TQ những năm 1980'. Trong NB&PM có vài mảnh tường giống như thế và có lẽ người design cho nó cũng cố ý bảo tồn như thế chăng? 

Bonsai quốc bảo

Trong collection bonsai của NB&PM có vài  chậu thuộc hàng quốc bảo.

– Cây bạch tùng Yamaki (Japanese white pine) :

Người Nhật gọi nó là "goyo matsu" (五葉松/thông 5 lá – Pinus parviflora), do ông Yamaki Masaru tặng năm 1976. Cây tùng nầy được lấy gốc ở đảo Miyajima (宮島) – một loại cây rất hiếm nơi đây, rồi luyện (training) từ năm 1626, đến nay đã gần 4 thế  kỷ. Mạch sống của cây nầy vẫn còn rất tráng kiện, tướng dạng phương phi.

Goyomatsu bonsai

Gia đình ông Yamaki sống ở Hiroshima (広島). Năm 1945 lúc Mỹ bỏ bôm hạt nhân ở thành phố trên cách vườn bonsai khoảng 3 km, nhờ có bức tường cao che chở nên cây không bị thiệt mạng. Ngày nay con cháu cụ Yamaki thỉnh thoảng có sang Mỹ để thăm viếng cây cổ thụ của tổ tiên mấy mươi đời. Đây là một cây bonsai vô giá! "Yamaki bonsai"  là một sứ giả hòa bình của Hiroshima – Nhật gửi sang Mỹ để tạo mối tình hữu nghị hằng cửu.  Ông Yamaki đã nhận được giải Huân Chương từ Thiên Hoàng Hirohito và từ thủ tướng Nakasone.  Ngoài ra ông còn có một cây "kuromatsu (黒松・hắc tùng – Japanese black pine (Pinus thunbergii)) chưng trong Hoàng Cung đứng chung với những cây bonsai quốc bảo NB trong đó có vài "cụ" trên 500 tuổi như cây "Sandaishogun" (三代将軍) trong cái chậu "shudêchôhô"(朱泥長方鉢). Nó làm cho tôi nhớ đến cây "Indomitable Juniper" (cối bất khuất) bên vực thẩm "Mesa" của Canyonlands.

– Chùm cây "Goshin"(護神/hộ thần = thần hộ mạng):

Chậu nầy do John Naka sáng tác từ Foemina junipers (Juniperus chinensis 'Foemina' – một loại cối lá kim) năm 1948, tặng cho viện nầy năm 1984. Mỗi cây tượng trưng cho một đứa cháu của mình. Rất nhiều sách và tạp chí bonsai Thế Giới có ảnh của "Goshin". Nhiều người đứng bất động khi nhìn chùm cây nhất là lúc bị tuyết phủ. Đây quả là một tác phẩm siêu quần của một bậc thầy muôn thuở.

"Goshin"

– "Satsuki bonsai":

"Satsuki" là "Azelea" thuộc chi Rhododendron indicum (つつじ), cũng được gọi là "satsuki tsutsuji"(皐月躑躅).  Ở Việt Nam ta gọi cây nầy là "Đỗ Quyên". "Satsuki"(皐月)  cũng có nghĩa là tháng 5 âm lịch.

Bên Nhật người ta có thú luyện cây hoa nầy thành bonsai. Nhạc phụ tôi lúc còn sống cũng có một vườn Satsuki bonsai khá tươm tất.Hoa Satsuki Nhật có nhiều màu nhiều dáng. Loại cây nầy lại sống rất lâu. Sau nhiều năm trồng Satsuki và quan sát  người Nhật khám phá ra là cây nầy thỉnh thoảng sẽ cho hoa khác màu  trên cùng một thân cây. Họ gọi hiện tượng nầy là "eda kawari" (枝変わり), i.e. "bud sport" do biến dị đột nhiên (突然変異).  

Mỗi năm khoảng giữa tháng 5 đến đầu tháng 6, các chậu bonsai Satsuki sẽ nỡ hoa. Tôi rất may mắn đã đến NB&PM vào lễ Memorial của Hoa Kỳ. Đây là dịp để nhìn những cây "Đỗ Quyên đa sắc " trong chậu mà tôi đã từng mê và thấy qua trên  nhiều tạp chí chuyên môn bonsai của nghề chơi trước đây. 

Nói chút về chữ "Bonsai" và "Penjing"

"Bonsai" (盆栽) là một  từ của tiếng Nhật ngày nay được dùng khắp thế giới.  "Bon"(盆/bồn) có nghĩa là  chậu hay đĩa (pots, trays), "sai (zai)" (裁/tài) có nghĩa là trồng – mượn từ từ "pen-sai" (hay "pun-sai" cùng chữ) của Hoa ngữ. Tuy nhiên từ bao giờ từ "Pen-sai" được dùng ở Trung Quốc (TQ) vẫn còn là một câu nghi vấn cho giới hâm mộ. Trong những sách về "Bonsai" viết bằng tiếng Anh ở Bắc Mỹ và Âu Châu, dù có tác giả nhận biết sự đồng nghĩa của 2 từ nầy, nhưng không thấy ai quả quyết được ai là kẻ dùng từ nầy đầu tiên trên thế gian.

bonsai và các công chúa TQ

Vào đời Tần khi Thỉ Hoàng Đế ra lệnh đốt sách của học trò, ông có đặt ra một ngoại lệ là phải giữ lại bộ sách "Y dược – bốc phệ (bói toán )- chủng thụ (trồng cây)"  (医薬・卜筮・種樹 ). Trong bộ sách nầy có miêu tả về cảnh cây trồng bên đường, trong hoa viên và trong chậu. Trong đời nhà Nguyên, từ "Ta tử cảnh" (些子景/ cảnh tí-hon – tức 盆景・"pen-jing" của bạch thoại TQ sau nầy) được dùng để chỉ những phong cảnh "sống" có cây tí hon nuôi trong chậu như sách "Ngũ Thạch Hồ” (五石瓠) của Lưu đình Loan (劉廷鑾) có trích dẫn trong đời Thanh sau nầy. Như thế thì "Pen-jing" (bồn cảnh) hay "bonkei" (Nhật ngữ) đã được yêu chuộng khá lâu đời rồi. Tuy nhiên sự kiện nầy chỉ đủ để cho ta biết về sự tiến hóa lịch sử  của nghệ thuật trồng cây trong chậu, trong đó "bonsai" là một một bộ phận của nghề chơi mà thôi. 

Gần đây nữ giáo sử Amy Liang (Đại học Quốc lập Đài-Loan, kiêm Seattle Community College và Seattle Pacific University) đã cố thuyết phục học giới rằng trong đời Đông Tấn của TQ từ "Pen-sai" đã được dùng trong bài thơ  "Quy điền viên " (trở về nhà  quê) để khen cái đẹp của chậu hoa Cúc (Tính ông chuộng cúc). Như thế ta có thể đoán rằng từ "Bonsai" hay "Pen-sai" được người TQ dùng để chỉ bông hoa trồng trong chậu gần 2000 năm trước, nhưng có phải là cùng nghĩa với từ "Bonsai"  ngày nay hay không cũng tùy cách giải thích của cá nhân, trong đó yếu tố chủ quan chắc khó có thể bỏ qua.

"Hòn non bộ"

Ở Việt Nam, thú chơi "Bonsai" chẳng được phổ biến nhiều và phát triển đến tầm mức nghệ thuật cao như ở TQ hay Nhật Bản – có lẽ vì thiếu một tầng lớp phú Nho hay thương nhân giàu có, i.e. "bourgeois" – tư sản xưa kia. Tuy nhiên dân ta đã biết trồng cây trong chậu cũng khá lâu đời.

Theo Đại Việt sử ký thì tháng 6 năm Ất Dậu (985) vua Lê Đại Hành, nhân lễ sinh nhật vua người ta đắp quả núi giả trên chiếc bè giữa sông để vua quan đi thuyền chung quanh thưởng ngoạn (xem Wikipedia). Sách chữ Nho "Phương danh bị khảo" thì nhắc đến trong dân gian cũng chơi "bồn trì" và "giả sơn" tức là "bể cạn" và "non bộ". Vậy thì rất có thể cái thú vương giả này đã từ trong cung đình truyền ra tứ dân rồi ngày càng phổ biến.

Trước 75 ở trong Nam mấy cụ nhà phú hộ thường có chưng "Hòn non bộ" trước sân nhà. Đây là một hình thức "pen-jing" của TQ hay "saikei" của NB . Ngày nay "cây cảnh" (cây kiểng  trong Nam) được dùng để chỉ cây "bonsai".  

Bonsai và thế giới

Vào thời nhà Đường thú chơi bonsai là một cái thú  tiêu khiễn thanh nhã của giới phong lưu quyền thế TQ đi theo với Đường Thi và Hội Họa. Sự hưng thịnh của dạng văn hóa nầy được kéo dài sang đời Tống, đời Minh, đời Nguyên và đời Mãn Thanh sau nầy. Bonsai được mang về Nhật do các tăng sứ du học TQ vào thời Thiên-Hoàng Heian (平安/Bình An), có sách bảo là vào thời Kamakura (鎌倉/Liêm Thương – 1185-1333) tương ứng với đời Đường hay Tống của TQ. Các sứ giả nầy mang cả Hán tự, Phật Kinh, Nho học và Đường Thi về để làm nền tảng cho sự khai minh văn-hóa của xứ Phù Tang.

Khi "Pen-jing" được truyền sang Nhật Bản, giới "Kuge” (公家/ công-gia, quí tộc ), "Bushi" (武士/võ sĩ) tức "samurai" và tăng-lữ giữ riêng cho mình – vì có "bonsai" là một danh dự biểu trưng cho giai cấp thượng lưu của xã hội đương thời. Khi Thanh thịnh ở TQ và nhà Edo (江戸/ Giang hộ) nắm lấy quyền thống trị toàn quốc ở Nhật Bản, qua sự an định của xã hội giới "thương nhân" (商人) phát triển cực độ và trở nên giàu có. Họ bắt đầu thích muốn những cái gì cao quí xa xỉ lâu nay chỉ dành riêng cho giai cấp thống trị.Với tiền bạc trong tay họ có thể mua mọi thứ . Trong khi đó giới "samurai" trở nên nghèo khó vì không còn chiến tranh, trong đó một số phải nuôi và bán bonsai như nghề phụ để có cớ sinh nhai. Penjing và Bonsai không còn là một cấm vật trong xã hội Trung Nhật nữa. Nó trở nên rất phổ biến và có cả một doanh nghiệp phục vụ cho nó. Đó là lúc tổ tiên ông Yamaki mở ra vườn nuôi và bán bonsai ở Nhật Bản.   

Bên TQ tiếng bạch-thoại "Pen-jing" trở nên phổ thông hơn rồi thay thế cho từ "Ta tử  cảch" trước đây. Ở xứ Nhật Bản món hàng bonsai đã lần hồi tìm đường xuất ngoại qua các thương nhân Hà Lan ở vùng Nagasaki. Người phương Tây rất ngạc nhiên và thán phục khi thấy cây con bonsai NB xanh tươi mặc dù có rất nhiều tuổi trong chậu. Họ ham mê đồ Nhật vì nó có phẩm chất cao, lạ và kỳ thú, trong đó có đồ sứ, silk (tơ), tranh Ukiyoe và bonsai. Đến khi World's Fair được mở ở Paris vào thời đầu Meiji (Minh Trị), bonsai đã được khá nhiều người biết đến. Đây là lúc nước Nhật chuyển mình đi vào thời đại mới của Minh Trị duy tân. Người Nhật biết phô trương  cũng như biết cách làm tiền. Thị trường thế giới rất mênh mông và họ không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để làm giàu cho đất nước. Bonsai trở thành một từ ngữ phổ thông của quốc tế từ đó. 

Bonsai, Bonkei, Saikei, Suiseki vs. Penjing, Hòn non bộ

Thông thường "Bonsai" là "penjing" tức cây trồng trong chậu nhưng không có đồ phụ họa. Người Nhật xưa kia còn gọi là "Hachiue" (鉢植).

"Bonkei" là âm Nhật cho chữ Hán "盆景"(bồn cảnh, i.e. "penjing" âm Hán). Bonkei  là"bonssai" với đồ phụ hoạ như cái cầu, chiếc thuyền, cục đá để tạo ra một phong cảnh. "Bonkei" tự nó không phải "bonsai" mặc dù chữ Hoa "penjing" dùng để chỉ cả "bonsai" của Nhật Bản. Bên Nhật còn gọi "bonkei" là  "bonseki" (盆石), "bontei"(盆庭),"bonsan" (盆山), v.v.

"Bonseki" (盆石・bồn thạch) còn dùng để chỉ một dạng nghệ thuật không liên quan gì đến "bonsai" hay "suiseki". Đây là đồ trang trí có thể làm bằng  gổ và sơn mày trên đó có cảnh sơn thủy.

"Saikei" (栽景・tài cảnh) là một cảnh trồng trong đĩa của NB – một dạng của Penjing TQ hay hòn non bộ VN.

 "Suiseki"(水石・thủy thạch – âm Nhật) cũng được gọi là ""sansui keiseki" (山水景石・sơn thủy cảnh thạch) , là đá và nước, tức một "penjing" không có cây trồng chung trên đó. Người Nhật họ dùng một đĩa cạn gọi là "suiban"(水盤・thủy bàn) tức cái đĩa giống như đĩa của Ikebana trên đó trải cát để tượng trưng cho nước.Trên cát là những hòn đá có hình dáng như núi non xa vời.   Trong các vườn Thiền mấy cục đá được bài trí như hoang đảo cũng có thể được gọi là "suiseki".

Người Á Đông ta nói chung có thú chơi "đá cảnh" tức "viewing stone"- cũng gọi là "Chinese Scholar's stone" . Đó là những cục đá có tướng dạng kỳ thú, vừa "lâm la vạn tượng"(森羅万象)vừa "u huyền sá tịch" (幽玄な侘び寂び) gợi lên nhiều tưởng tượng cho người nhìn. Người Hoa thích đá có vân rồng, phụng,  hổ.Người Nhật rất thích đá vân hoa cúc  – 菊花石(アンモナイトの化石の入った石)vì  hoa nầy  tượng trưng cho Hoàng Thất.

China Town của San Francisco có một  tiệm buôn đá cảnh TQ rất lạ trên Grant Avenue. Tôi thường ghé  xem khi có dịp đến đây.Đối với người mê đá cảnh thì tiệm nầy nào có khác gì với tiệm boutique  Gucci  hay Channel cho mấy "anh chị" thích đồ fashion?

Sự thăng trầm của "bonsai" và "penjing"

Ngay nay bonsai hay penjing là một dạng văn hóa quốc tế, không cần phải giải nghĩa thêm cho từ ngữ nầy. Nghệ thuật nuôi và thưởng ngoạn  bonsai/penjing  phát triển rất mãnh liệt từ sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt giữa Đông và Tây. Nhưng trước đó là một chuyện khác.

Ở Trung Quốc từ lúc cách mạng đỏ thành công, người ta cố trừ bỏ những dạng văn hóa xưa, nhất là cái gì thừa kế từ chế độ phong kiến. Khi nhóm Hồng vệ binh nổi lên, các chậu "penjing" cổ của TQ đều bị đập phá, ngay cả những cục đá cảnh được tạo tác và yêu quí ngàn năm trước cũng trở thành cát bụi.Họa hoằn lắm một vài thức giả có oai quyền với cách mạng mới dám giấu nó trong các kẹt núi rồi vang vái Trời Phật trong bụng mong cho cơn điên cuồng của thời đại CS Mao  mau đi qua với thời gian.

Ở Việt Nam ta theo tôi ước đoán thì số lượng cây cảnh với phẩm chất  cao như bonsai quốc tế ngày nay chắc không nhiều. Cũng tương tự như bên TQ, trong những năm 50', phong trào đấu tố ngoài "đó" chắc đã quét dọn gần hết số cây cảnh cũng như chủ của nó. Nếu ai giấu được thì  chắc phải là Việt gian- n'est ce pas!?.

Rất may cái buồn rồi cũng có lúc nguôi ngoai. Ngày nay đất nước ta đã thanh bình. Với số tiền Việt Kiều gửi về giúp nước đều đều, sự vay mượn từ ODA,  mỏ Bauxit trên Tây Nguyên và mỏ dầu khí ngoài biển do Diêm Vương và Long Vương tặng cho cuộc sống dân ta bắt đầu có thay đổi – rồi tư duy con người cũng theo sau đó.   Người chơi bonsai không còn bị đấu tố nữa và ai cũng có quyền mua và chơi miễn có tiền "mới đổi" là đươc. Dân ta lại có khiếu trồng và nuôi cây. Chắc chắn là bonsai Việt Nam sẽ có ngày nổi danh trên Thế Giới! 

Tiêu chuẩn thẩm mỹ của "bonsai"

Xưa kia vua chúa TQ khi thấy cây bonsai lần đầu chắc họ phải nghĩ rằng nó là một món đồ ảo thuật của thầy phù thủy vì cả một thế giới lạ nằm trong tay mình. Họ  gọi nó là "ta tử cảnh" là thế. Không cần nghĩ nhiều trên thế gian nầy cái gì "tí hon" là được người ta ưa chuộng. Người  Tàu còn có nhiều cái thích lạ lùng như tục bó chân con gái đàn bà để giữ cho nó nhỏ bé mãi cho "đẹp" và "sang" – vì đối với họ bàn chân "tượng" là tầm thường khó coi.  

Người Nhật thường chế tạo cái gì cũng nhỏ, như đồ chơi cho James Bond 007. Vì vậy bonsai đối với người Nhật ngày nay phải gọn và nhỏ đến mức khả thi trong khi có đủ mọi yếu tố yêu cầu như đủ "tuổi" đủ đẹp. Họ có thú nuôi "mame bonsai" rất nhỏ bé . Người ta thường cố tìm những loài cây "dwarf" (đẹt) với lá nhỏ để làm bonsai. Ở phương Tây có thú trồng cây "dwarf" hay "miniature tree". Một cây đa đào lén sau chùa hay ngoài rừng to bằng chiếc xe cam-nhông dù có uy nghi đến mấy cũng không phải bonsai. Để đánh giá cây bonsai người ta thường nhìn cây, tìm rỏ số tuổi và thời gian được huấn luyện trong chậu và người tạo ra nó. Không thì nó chỉ là cây "stock tree" để trồng trong sân vườn mà thôi.  

Bên Nhật khi cây bonsai đem ra đấu xảo, người ta để ý đến từng chi tiết nhỏ. Một lá kim chết trên cây thông bonsai hay con sâu bám dưới cành cũng bị loại ra. Người ta đánh bóng cái "hachi" (鉢/chậu) cho thực sạch sẽ. Màu chậu và dáng chậu phải hạp với loài cây và thế cây. Người giám khảo rất khắc khe nhưng rất công bằng và được mọi người kính trọng….

Triết lý bonsai theo John Naka

Trong ngày lễ nhận giải thưởng danh dự cao nhất cho một nghệ nhân từ National Heritage Fellowship Hoa Kỳ John Naka có nói: "…(bonsai) chỉ có bắt đầu, rồi sẽ không bao giờ kết thúc"."Cái mầm nhỏ hôm nay sẽ trở thành cành ngày mai". Ông nói thêm: "Phía sau cây bonsai phải có một triết lý, thực vật, nghệ thuật và nhân phẩm". "Bonsai không phải cây để anh mằn mò trên nó, mà là cây nó mằn mò lên anh…". "Phải để khoảng trống cho chim bay xuyên qua cành bonsai của anh…".

Cây để làm bonsai Nhật

Thường thì loài cây nào cũng có thể dùng để làm bonsai tùy theo kỹ thuật và kinh nghiệm của nghệ nhân. Người phụ nử Nhật thích loài hoa cỏ như "satsuki" (皐月), "fuji"(藤・wisteria),  "boke" (木瓜・chi Hải đường) còn nam tử thì tùng bách. Nhưng nói chung cây có lá nhỏ và mau mộc hóa (lignification) là dễ dùng cho bonsai như cây trà Phúc Kiến (carmona) và box-wood (chi hoàng dương). Loài tùng bách thì có tuổi thọ cao (trên 500 năm) rất được ưa chuộng. Trong nhóm nầy cây Sargent Juniper ( Juniperus chinensis “Sargenti”) là đẹp lão nhất vì có lá kim nhuyễn không đâm vào kẹt móng tay, lại có da cây màu đỏ đẹp mắt, thân dễ uốn thành nhiều dạng và cho "jin"(神・thần, i.e.chỗ không còn da cây trên cành) và "sari"(舎利・xá lợi, i.e. chỗ không còn da cây trên thân).  Bên Nhật gọi cây nầy là "Shimpaku" (真伯・chân bá).

Loài  Japanese white pine  (五葉松)thì rất quí phái. Gọi "white" vì mặt dưới của lá kim cây nầy có màu nhạt nên khi nhìn như màu bạc hoặc trắng. Đây là một loại thông lùn 5 lá sống hơn 1000 ngàn năm. Cây thông "nishiki"( 錦松)có vỏ như san hô rất là kỳ thú. Cây hắc tùng "kuromatsu" (黒松)thì tương phản với bạch tùng "white pine" nhưng cũng là loài trường thọ sống lâu còn hơn ông Bành Tổ ngày xưa.Tùng đỏ "akamatsu"(赤松・Pinus densiflora) và tùng Đường "karamatsu" (唐松/Larix) rất hạp cho bonsai . "Karamatsu" (tên  thông thường: larch) tuy có tên  là "tùng" nhưng không phải tùng thật vì nó rụng lá vào mùa thu. Cây nầy sẽ cho màu lá vàng ánh rất đẹp như cây "ginkgo" (bạch quả) và loài cây thích Nhật gọi là "kaede" hay "momiji"(Japanese maple). Người thích bonsai có trái thì cây "lựu" sẽ giúp làm vui cho mùa kết quả.

Shimpaku bonsai

Đồ dụng cụ cho bonsai

Ngày nay sự hiểu biết về bonsai và penjing không còn dành riêng cho người Nhật và Hoa nữa. Với kiến thức về khoa học và sự ham muốn tìm hiểu người Tây phương cũng có thể đạt đến những tác phẩm tuyệt đỉnh của nghề chơi. Nhưng khi nói tới đồ dụng cụ cho bonsai thì người Nhật vẫn còn ở vị trí trên cao hết. Với kinh nghiệm luyện đúc kiếm "samurai", kềm kéo của NB rất bén nhọn vì họ biết lợi dụng "carbon steel". Qua mấy trăm năm thương nghiệp hóa bonsai người Nhật có đủ mọi loại đồ cắt rất chuyên biệt. Họ có kềm "concave cutter" rất bén để cắt cành cây sát đến thân cây để cho cây mau lành. Khi nhìn thùng đồ nghề của họ ta có cảm tưởng như là đồ nghề của người thợ sửa xe hiện đại hay bác sĩ giải phẫu. Ngay như đồ hóa học hay hormone để giúp cây nẩy mầm người Nhật cũng đã dùng từ lâu.

Về chậu cho bonsai, trước kia (thế kỷ 17-18) NB phải mua từ TQ vì đại lục có truyền thống và kỷ thuật về đồ gốm đồ sứ và Nhật họ gọi là đồ "kowatari" (古渡り). Sang đến thời  Minh Trị người Nhật đã khám phá ra được cái bí quyết làm chậu của người Tàu rồi vượt qua TQ. Chậu của Nhật được "firing" ở nhiệt độ cao. Họ biết phân lượng của đất sét hay ceramic một cách khoa học. Vì thế chậu bonsai NB không bị nứt khi trời quá lạnh như mùa đông ở Bắc Mỹ hay Canada.       

Ngày nay các dân chơi bonsai ở Âu Mỹ còn học cả cách nắng và nung chậu. Bonsai club của chúng tôi thường mướn các chuyên gia pottery đến dạy làm "pots". Ông Peter Chan một bonsai master của Anh quốc (Heron's Bonsai Nursery, chairman of British Bonsai Association) có design mấy cái chậu hình dáng giống như cái đĩa bay của UFO rất đẹp và lạ mắt (see The Complete Book of Bonsai – Peter Chan – Dorset Books 1989) ngày nay có nhiều ngưới bắt chước.

Cây bonsai trong phòng triển lãm thường nằm trên một cái đế (台・đài), bàn hay ghế. Người Hoa và Nhật rất khéo tay trong việc thiết kế và điêu khắc. Gỗ đỏ "rossewood" thường được dùng cho mục đích nầy. Dân ta cũng có nhiều sáng kiến trong việc làm đồ gỗ mỹ thuật. Việc đạt đến tầm mức quốc tế chỉ cần học hỏi thêm tí là có thể làm được.

Nhân tình qua bonsai/penjing

Người chơi bonsai thường có một mối liên hệ với nhau rất đặc biệt. Khi biết anh hay chị là người thích bonssai là đủ yếu tố để làm bạn với nhau rồi.

Một hôm John Naka qua Hongkong thăm vườn penjing của bác sĩ Wu, hai người trở thành bạn tâm giao. Lúc ra về BS Wu trao cho John một gói quà bảo đừng mở ra. Lúc về đến Mỹ John mới biết đó là một cái chậu bonsai antique đời Minh vô giá. John Naka nhớ là lúc xem collection đồ cổ của BS Wu ông đã ngắm nó rất lâu với vẽ ước muốn. Thì ra BS Wu đã đoán biết được lòng bạn nên chia sẻ với nhau. Đây là một triết lý sống qua "sharing" của "bonsaist" trí thức.

Vợ samurai cắt cây bonsai làm củi

Zeami Motokiyo (世阿弥元清/Thế A Di Nguyên Thanh (1363–1444) có viết một màn kịch Noh (能 ) tựa là "Hachi no ki"(cây trồng trong chậu). Theo chuyện thì vào thời đó (Kamakura) có một samurai nghèo đã hy sinh 3 cây bonsai của mình để làm củi đốt sưởi ấm một nhà sư ghé sang nhà anh trong một ngày đông giá. Thật sự sư là sứ quân Hōjō Tokiyori (北条時頼) giả dạng đi ra ngoài để thăm dò đời sống của dân gian. Khi sứ quân biết được lòng trung tiết của anh samurai nghèo mới bang cho 3 làng để lập thân  và đặc tên làng là "ume" (梅・mai), "matsu" (松・tùng) và "sakura" (桜・anh đào) – tên 3 cây bonsai đã đốt. Về sau sự tích nầy được in trên tranh phù thế "Ukiyoe" và vải lụa cho "furoshiki".

Cây cảnh 5 triệu đô không bán

Gần đây tôi rất phấn khởi khi đọc báo trong nước có người đang khoe cây cảnh sẽ không bán với giá 5 triệu đô la Mỹ.

Tôi tò mò xem ảnh thì ra đó là loài cây "Ficus", một họ với dâu, sung và banyan (sanh) trong đó có cả cây bồ đề (Sacred fig). Ficus hay fig (từ thông dụng) là loài cây mau lớn như "heo". Khi trồng ở xứ nhiệt đới có khí g ẩm "fig" hay đâm ra rể trên không gọi là "aerial root".  Đây là loài thực vật ký sinh "nằm vùng". Vì hạt fig do chim ăn trái thải trên cây "chủ" sẽ nảy mầm. Khi fig lớn rễ sẽ xiết khổ chủ đến chết và tiếp tục sống như thế qua nhiều đời mặc dù nó không thuộc loài thực vật trường thọ như cối hay tùng. Trong họ ficus cây sanh (Ficus benjamina) rất được các nhà nuôi cây cảnh "indoor" ở xứ lạnh ưa chuộng vì dễ nuôi và rẻ tiền. Cây nầy thường sống ở các xứ nhiệt đới và có dạng như cây đa nói chung .

Bên Mỹ vùng Florida có rất nhiều cây fig và khoảng 20 năm trước người Hoa sang đây đã dùng nó để chế bonsai bán trong chợ trời với giá khoảng 20-50 đô la một chậu khoảng 10 tuổi.    

Trước 75 ở Việt Nam chúng ta ít khi nghe ai có cây cảnh hay bonsai cao giá, ngay cả cây bonsai cũng còn khó kiếm. Thì ra cách mạng đã mang đến cho dân ta nhiều điều hay. Trong đó là cách làm giàu mau cho đất nước.

Với anh chủ nhân cây bonsai "5-chiệu đô la cũng không bán" năm nay khoảng trên dưới 40,với giả thuyết cho rằng trước 75 không có bonsai ngoài đó và người ta chỉ biết bonsai sau khi đợt Việt kiều được phép về thăm VN, thì những cây Ficus của anh chủ nầy cao lắm là 20-25 tuổi. Theo tôi nghĩ sự  đánh giá của cây bonsai rất là siêu quần, ngay cho con buôn TQ tham lam cũng không làm được.

Tôi không hiểu mấy nhà kinh tế trong nước nghĩ sao chớ theo tôi thì – thay vì hối hả đào tạo 10 ngàn tiến sĩ làm chi cho mệt. Gửi họ ra ngoại quốc ăn học rồi có số đi luôn theo Việt Kiều. Thay vào đó hãy đào tạo 10 ngàn "bông sài ít sờ (bonsaists) -5- triệu-đô-cũng không-bán" đi. Vì nhóm nầy chắc chắn sẽ ở lại với quê hương và làm cho Viêt Nam ta mau giàu. Với số tiền bán được cây biết đâu ta sẽ đủ để mua Hoàng Sa Tây Sa như Nhật Bản mua đảo Senkaku. Hay còn dư thì mua luôn đảo Hải Nam nữa. Các bác  nghĩ sao?

Naruhodo

(Ohio một ngày buồn-say (盆栽) tháng 7, 2013)

Xem thêm: Nghệ Thuật Chơi Cây Cảnh II Kinh nghiệm nghệ nhân về việc “chọn mặt tiền” Bonsai

Speak Your Mind

*

CÔNG TY PHIM CÁCH NHIỆT VÀ TRANG TRÍ NHÀ XANH
ĐC: 76/80 Lê Văn Phan, P. Phú Thọ Hòa, Q. Tân Phú - Điện Thoại: 08 66.828.898; Fax: 08 38610665
 Emai: [email protected] - Hot line: 0898 422 418
agrimark.org là website chia sẻ kiến thức phi lợi nhuận
Khi đăng lại bài rất mong các bạn dẫn nguồn  tới trang agrimark.org để giúp chúng tôi phát triển.
Xin chân thành cảm ơn!
EMG